31.01.12

Chuyện hoàng đế Trung Quốc lên ngôi nhờ kỹ nữ

Chuyện hoàng đế Trung Quốc lên ngôi nhờ kỹ nữ

02-09-2011 | 07:30


(Nguoiduatin.vn) - Phía sau người đàn ông thành công luôn có hình bóng một người phụ nữ, câu ngạn ngữ này tuyết đối chính xác trong trường hợp của Đường Vũ Tông Lý Viêm.

Sinh ra vào thời kỳ thái giám làm chủ, hoàng đế cúi đầu làm nô bộc, là người em thứ 5 của Đường Văn Tông, vốn dĩ, Lý Viêm chỉ là một vị vương gia hoàn toàn bình thường và có lẽ bản thân Lý Viêm cũng chưa bao giờ mơ đến ngai vàng. Tuy nhiên, lịch sử đã tạo nên một nhầm lẫn ngẫu nhiên và nhờ sự táo tợn của một kỹ nữ Lý Viêm đã trèo lên được ngai vàng… 

Đường Vũ Tông sinh năm Nguyên Hòa thứ 9 đời nhà Đường, tức năm 814, ban đầu vốn tên là Lý Triền. Cho tới trước năm 27 tuổi, Lý Triền là một vương gia cực kỳ ngoan ngoãn và cẩn trọng. Trong khi ngai vàng nhà Đường cứ như trái bóng chuyển qua chuyển lại giữa cha Mục Tông và hai người anh là Kính Tông và Văn Tông thì Lý Triền tận dụng mọi thời gian để du lịch khắp nơi, hưởng thụ cuộc sống và quan tâm tới một lĩnh vực đặc thù của y học vốn là lĩnh vực có truyền thống lâu đời của các hoàng tộc Trung Quốc: Luyện đan. 

Cũng bởi lý do này nên bất kể là hoàng đế hay thái giám các “ông chủ” của hoàng đế lúc bấy giờ đều không khiến Lý Triền quan tâm. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, lối sống của Lý Triền may mắn lại “hợp thời” và an toàn đối với một thành viên của hoàng thất. 

Trong một lần du ngoạn Hàm Đan, Lý Triền ngẫu nhiên gặp một kỹ nữ họ Vương. Cô ca nữ này không chỉ xinh đẹp hơn người mà còn giỏi ca vũ, văn thơ, khiến Lý Triền chết mê chết mệt. Thời đại nhà Đường là thời đại mà những quan niệm về hôn nhân cực kỳ phóng khoáng. Lấy một cô gái lầu xanh về làm vương phi cũng chẳng phải là việc gì quá xấu hổ. Vì vậy, Lý Triền không ngần ngại bỏ tiền chuộc thân cho Vương thị, đưa cô ta về vương phủ làm vợ. Vương thị vốn là người thông minh, Lý Triền lại hết sức yêu chiều thành ra hai người sống với nhau rất hạnh phúc.  
Đường Vũ Tông
Trong khi hai vợ chồng Lý Triền đang trải qua những ngày tháng êm đềm trong mật ngọt ái ân thì “đế quốc Đại Đường” đang trải qua những cơn sóng gió dữ dội do việc lập người kế thừa ngai vàng. Lúc bấy giờ, Đường Văn Tông, một ông vua chăm chỉ nhận thấy bọn hoạn quan trong triều đình đang lộng quyền, nên muốn mượn thế lực của các đại thần tiêu diệt bọn chúng. Tuy nhiên, cuộc “nổi dậy” mang tên sự biến Cam Lộ của vị hoàng đế đã thất bại hoàn toàn. 

Từ đó trở về sau, bọn hoạn quan Cừu Sỹ Lương và Ngư Hoằng Chí nắm toàn bộ quyền hành trong triều đình. Lúc này, Đường Văn Tông muốn quyền lực cũng không có quyền lực mà muốn tự do cũng chẳng có tự do, thành ra làm hoàng đế còn khó chịu hơn cả làm một thái giám. Ngay như việc lựa chọn người kế vị mình, Văn Tông cũng không tự mình quyết định được. 

Ban đầu, Văn Tông muốn lập Tấn Vương Lý Phổ, con của anh trai mình là Kính Tông làm thái tử. Tuy nhiên, đáng tiếc Lý Phổ không có may mắn được làm vua, đến tháng 6 năm Thái Hòa thứ 2, tức năm 828 mới 5 tuổi đã mắc bệnh qua đời. Chẳng còn cách nào khác, Văn Tông đành chuyển hướng lựa chọn sang đứa con trai của mình là Lỗ Vương Lý Vĩnh. 

Lúc bấy giờ, phi tử đang được sủng ái nhất của Văn Tông là Dương phi lại không ưa Lý Vĩnh nên tìm mọi cơ hội để phế truất ngôi thái tử của Lý Vĩnh. Chẳng biết có phải là ước muốn của Dương phi quá “thành khẩn” hay không mà chẳng bao lâu sau đó, Lý Vĩnh cũng đột ngột theo người anh trai của mình về nơi suối vàng, đến bệnh cũng không biết là gì. Dương phi lúc này vui mừng khôn tả, dốc toàn lực để tiến cử An Vương Lý Dung. Lúc đó Văn Tông còn do dự thì tể tướng là Lý Giác đã đứng lên khuyên Văn Tông nên lập con trai thứ 6 của Kính Tông là Trần Vương Lý Thành Mỹ làm thái tử. Sau một hồi đọ sức, tể tướng cuối cùng đã thắng quý phi, Lý Thành Mỹ trở thành người kế vị ngai vàng.

Cái chết đột ngột của thái tử Lý Vĩnh là mộc cú sốc tinh thần cực mạnh đối với Văn Tông. Tuy nhiên, ông lại không thể đem sự bực bội của mình trút lên đầu bọn thái giám được, thành ra chỉ đành đem những cung nữ ra làm kẻ thế tội. Thế nhưng làm như vậy cơn uất giận của Văn Tông cũng không thể nguôi ngoai.

Chính vì thế, dù đã lên kế hoạch sẽ tổ chức một đại lễ sắc phong thật hoành tráng cho Lý Thành Mỹ, song chưa đợi được đến ngày đó thì Văn Tông đã đổ bệnh vì những cơn tức giận dồn nén trong người. Trong giờ phút cảm thấy mình không còn sống được bao lâu nữa, Văn Tông mật chỉ cho Khu mật sứ Lưu Hoằng Dật và Tể tướng Lý Giác giúp thái tử Lý Thành Mỹ trông coi việc nước. 

Tuy nhiên, hai vị đại hoạn quan khác là Cừu Sỹ Lương và Ngư Hoằng Chí thì lại có một tính toán nhỏ khác. Lương và Chí tính toán rằng, nếu như Trần Vương Lý Thành Mỹ lên ngôi thì toàn bộ công lao sẽ thuộc về Lưu Hoằng Dật và Lý Giác, còn hai kẻ bọn chúng thì từ đó về sau coi như là hết đất sống. Vì vậy, Lương và Chí không màng đến thánh chỉ của Văn Tông, công khai đòi đổi thái tử với lý do thái tử Lý Thành Mỹ tuổi còn quá nhỏ. Văn Tông cũng muốn tranh cãi nhưng giờ thì đến thở còn khó chứ đừng nói gì đến việc tranh đoạt.

Tể tướng Lý Giác cũng phản đối nhưng trong tay không có binh quyền cũng chỉ biết mấp máy môi mà thôi. Việc binh quý ở chỗ thần tốc, Cừu Sỹ Lương ngay lập tức ngụy tạo một bức chiếu lệnh của Văn Tông sắc phong cho An vương Lý Dung làm hoàng thái đệ và phái bọn Thần sách quân tới vương phủ số 16 đón An vương về làm lễ tức vị.
Hình minh họa
Đúng vào thời điểm quan trọng này đã xảy ra một nhầm lẫn thú vị. Theo sử sách ghi chép, lúc bấy giờ, An vương Lý Dung và Dĩnh vương Lý Triền đều rất được anh là Văn Tông yêu thích và đồng thời đều ở tại nhà số 16 khu vương phủ. Bọn lính Thần sách quân do Cừu Sỹ Lương cử đi vốn là một lũ vô học, chưa hiểu rõ mệnh lệnh của Cừu Sỹ Lương chúng đã vội vàng chạy tới số 16 khu vương phủ. Chính vì vậy khi tới được vương phủ thì chúng mới ngẩn người ra không biết là đón vị thân vương nào. 

Cũng may, Cừu Sỹ Lương ở trong cung tình hình cấp bách những vẫn phản ứng rất nhanh, đã phái một “kẻ tâm phúc” đuổi theo bọn Thần sách quân. Tuy nhiên, “kẻ tâm phúc” của Cừu Sỹ Lương cũng là một tên ngốc nghếch, đầu óc thì rõ ràng nhưng nói không ra câu ra chữ. Khi hùng hục chạy tới được phủ thân vương, ngắc ngứ suốt nửa ngày mới thốt ra được một câu: “Đón người nào lớn ấy! Đón người nào lớn ấy!”. 

Ý của y là An vương lớn hơn Dĩnh vương, nên đón An vương Lý Dung. Bọn Thần sách quân nghe xong, vẫn không hiểu được nhiệm vụ của mình là đón ai. Trong phủ thân vương, An vương và Dĩnh vương nghe thấy bên ngoài huyên náo, tuy nhiên, cả hai cũng không dám có hành động gì khi chưa dám chắc chắn.

Trong khi hai vị thân vương còn đang do dự chưa biết phải xử trí thế nào thì người con gái xuất thân từ lầu xanh mà Dĩnh vương Lý Triền đưa về từ Hàm Đàn quyết định hành động. Vương mỹ nhân cực kỳ điềm tĩnh bước ra khỏi vương phủ tới trước mặt bọn lính Thần sách quân dùng giọng nói ngọt ngào của mình để nói với bọn chúng: “Các ngươi nghe đây, cái gọi là “người lớn” ấy chính là Dĩnh vương Lý Triền. 

Các ngươi mở to mắt ra mà xem cho rõ, Dĩnh Vương khôi ngô tuấn tú, đến đương kim hoàng thượng cũng phải gọi người là Đại vương!”. Bọn Thần sách quân bắt đầu mắc câu, Vương thị thấy vậy nói tiếp: “Dĩnh vương và thượng cấp của các người là Cừu công công là chỗ tri âm tri kỷ, sống chết có nhau. Việc lập vua mới là việc cực kỳ hệ trọng, nếu các ngươi không cẩn thận, xảy ra sơ xuất thì đừng hòng toàn tính mạng”. 

Thần sách quân nghe xong, mắt tròn mắt dẹt, chẳng biết người phụ nữ này nói thật hay giả. Lúc này, Vương thị quay ngoắt vào bên trong, thúc giục Lý Triền bước ra bên ngoài. Bọn Thần sách quân thấy Lý Triền bước ra, quả nhiên khôi ngô tuấn tú, vì vậy bọn chúng bị thuyết phục hoàn toàn, lập tức đưa Lý Triền lên mạng đưa tới viện Thiếu Dương nhận ngôi hoàng thái đệ.

Khi nhìn thấy Thần sách quân mang Lý Triền về, Cừu Sỹ Lương chỉ còn thiếu nước đập đầu vào tường vì bực bội. Tuy nhiên, trong tình thế nguy cấp, Cừu Sỹ Lương chỉ đành đâm lao phải theo lao, lập tức sắc phong Dĩnh vương Lý Triền làm hoàng thái đệ. Vài ngày sau đó, trong sự chờ đợi của nhiều người, cuối cùng Văn Tông cũng băng hà. 

Lý Triền tức vị, trở thành Đường Vũ Tông trong lịch sử. Người ta nói rằng, việc Lý Triền lên ngôi vua, công đầu thuộc về cô kỹ nữ họ Vương. Bởi lẽ, nếu như không có Vương thị thì có lẽ cả Lý Dung lẫn Lý Triền sẽ vẫn ngồi đợi cho đến khi Cừu Sỹ Lương sốt ruột quá mà tự mình phải đến đón thái tử tương lai.
 
Lý Triền là người không làm thì thôi nhưng đã làm thì làm cho tới tận cùng. Trước đây, là một thân vương bình thường, Lý Triền không bao giờ nghĩ có ngày mình được ngồi lên ngai vàng vì vậy chuyện quốc gia đại sự Lý Triền chẳng bao giờ màng tới. Tuy nhiên, hiện giờ đã là một hoàng đế, Lý Triền cũng muốn làm một hoàng đế cho thật ra trò. Vì vậy, ngay trong ngày đầu tiên tức vị, Lý Triền đã có một màn biểu diễn cực kỳ thành công. Cừu Sỹ Lương nói giết vợ của Văn Tông, Lý Triền không nói đến lời thứ 2, lập tức cho giết. Cừu Sỹ Lương lại nói Trần vương Lý Thành Mỹ cũng nên giết, Lý Triền không hề do dự, lập tức hạ lệnh hành quyết Trần vương. Được vài lần, Cừu Sỹ Lương bắt đầu tin rằng, Lý Triền là một hoàng đế ngoan ngoãn, có thể dạy bảo được. 

Trong khi đó, Lý Triền tiếp tục tỏ ra mình là người không màng gì đến chính sự. Hễ có thời gian rỗi là ông vua mới lên ngôi lại cưỡi ngựa đem Vương mỹ nhân đi khắp nơi du ngoạn, có lúc thì tới các kỹ viện tìm gái lầu xanh, uống rượu xem múa, nhiều lúc cao hứng tại kỹ viện còn cùng các kỹ nữ múa vài bài. Cừu Sỹ Lương nhìn thấy vậy vui mừng khôn xiết. Lương vốn có một bí quyết để biến các hoàng đế thành hôn quân, đó là không được để cho các vị có thời gian nhàn rỗi. 

Bởi chỉ cần có thời gian nhàn rỗi thì lập tức họ sẽ thân cận với bọn đại thần mà rời xa thái giám, từ đó sẽ ngày càng trở nên “thông minh” và “khó bảo”. Biện pháp hữu hiệu nhất cho bí quyết này chính là tìm những gì thật vui, ngày ngày hấp dẫn được niềm say mê của hoàng đế, cho họ vui vẻ đến quên hết mọi thứ. Cứ theo như bí quyết mà Cừu Sỹ Lương nắm trong tay thì Đường Vũ Tông Lý Triền là một hôn quân tự học thành tài, không cần thầy dạy vẫn có thể thông suốt tất cả.

Tuy nhiên, ngay thời điểm Cừu Sỹ Lương còn đang vui vẻ mừng thầm thì Vũ Tông bắt đầu hành động. Đầu tiên, Vũ Tông Lý Triền phục chức Lý Đức Dụ cựu tể tướng dưới thời Văn Tông vốn bị bọn Cừu Sỹ Lương dèm pha mà bị đuổi về quê. Lý Đức Dụ là một người có tài lại hết lòng trung thành với triều đại nhà Đường. Vũ Tông chọn Lý Đức Dụ là đã chọn đúng người. Dưới sự hợp sức của Vũ Tông và tể tướng Lý Đức Dụ, triều đại nhà Đường bước vào thời kỳ trung hưng tương đối thịnh vượng dù không kéo dài như người ta mong đợi.

Thấy tình hình bất ổn, Cừu Sỹ Lương chỉ hận không chặt đứt được đôi chân của mình để thoát tội. Suy tính một hồi, cuối cùng tên hoạn quan ma mãnh quyết định lấy lui làm tiến. Lương dâng sớ từ quan lên Lý Triền, nói rằng mình đã già, giờ muốn về quê dưỡng lão, sống bằng “lương hưu”. Lương dám nói, Lý Triền cũng dám phê chuẩn. 

Chẳng qua là tiền lương hưu thôi mà, một hoàng đế đại đường lại tín toán một khoản nhỏ mọn với một tên thái giám cả đời “tận tụy”? Đây có lẽ là điều mà Cừu Sỹ Lương và bọn thái giám không hề nghĩ tới. Sự việc đã tới nước này thì chuỗi ngày làm mưa làm gió trên triều đình, phế lập hoàng đế như trò chơi trong lòng bàn tay của bọn thái giám đã chấm dứt. 

Để tỏ ý mình chẳng coi mấy đồng “lương hưu” mà Lý Triền cấp cho ra gì, về quê được ít lâu, Cừu Sỹ Lương lăn ra chết. “Đại ca cầm đầu” về hưu rồi nhanh chóng từ giã cuộc đời, bọn thái giám trong cung như rắn mất đầu, trở lại làm nô tài ngoan ngoãn như xưa.

Sau khi tiêu diệt bọn hoạn quan, Lý Triền bắt đầu tính sổ với bọn quân phiệt. Vào thời bấy giờ, do triều chính suy vi, nên ngoài Hoàng đế Đại Đường ở khắp nơi nảy ra rất nhiều các vị Hoàng đế địa phương. Dưới sự trợ lực của Lý Đức Dụ, Vũ Tông Lý Triền đã làm được công việc mà suốt nhiều đời ông cha mình không thể làm được: Dẹp yên các cuộc nổi loạn của phiên vương.
Sau khi sự việc dưới phàm trần đã được giải quyết, Lý Triền bắt đầu trở lại với niềm đam mê cõi tiên của mình. 

Các hoàng đế triều Đường đại đa số đều có chung một đặc điểm, ấy là cực kỳ thích thú với việc luyện đan, cầu tiên dược, mơ tưởng một ngày kia sẽ được trường sinh bất lão. Đường Hiến Tông, Đường Mục Tông, Đường Tuyên Tông, bao gồm cả ông vua nổi tiếng Đường Thái Tông đều vì niềm đam mê này mà không may trúng độc dẫn đến những cái chết đột ngột. Chính vì vậy, người ta mới gọi tiên dược của các vị hoàng đế là “không ăn thì còn sống thọ chứ đã ăn vào thì chắc chắn sẽ chẳng thọ được bao lâu chứ đừng nói gì đến trường thọ”. 

Là con cháu của Đường Thái Tông, Lý Triền từ khi còn là một Dĩnh vương đã cực kỳ hứng thú với việc luyện đan. Vì vậy, thời kỳ còn ở khu vương phủ số 16, theo sát Lý Triền luôn là một đám đạo sỹ, cả ngày chỉ dùng các kim loại nặng và chất độc (như lưu huỳnh) để luyện thành cái gọi là tiên dược trường sinh bất lão. 

Theo lý luận của đám đạo sỹ này thì các kim loại như vàng bạc có thể chống ăn mòn thối rữa vì vậy, nếu hấp thụ được những tinh hoa của những thứ này thì cơ thể có thể trở thành bất diệt. Lý Triền là một ông vua mưu trí trong chính trị, tuy nhiên trong lĩnh vực luyện đan lại ngốc nghếch đến nực cười. Vị hoàng đế nổi tiếng thời kỳ Đường trung hưng này cực kỳ thành khẩn tin lời đám đạo sỹ cho tới tận khi nhắm mắt xuôi tay.

Khác với thời kỳ còn là một thân vương, sau khi Lý Triền lên ngôi hoàng đế thì bọn đạo sỹ như Triệu Quy Chân không chỉ làm các loại thuốc giả mà còn giả mạo các câu sấm để lừa vị hoàng đế mê mẩn tiên dược này. Vốn ghét bỏ Phật giáo, vốn rất đang thịnh hành lúc bấy giờ, bọn đạo sỹ Triệu Quy Chân đã làm giả một câu sấm nói rằng, bọn hòa thượng sẽ làm phản chống lại nhà Đường. 

Tiếp đó, chúng nói với Lý Triền: “Bệ hạ có biết vì sao các đạo sỹ tu tiên lâu như vậy mà chẳng có ai thành tiên được không?”. Lý Triền lắc đầu, Triệu Quy Chân nói: “Là bởi vì yêu khí của bọn hòa thượng quá nặng, cản trở con đường thành tiên”. Lý Triền nghĩ, ta đã là hoàng đế, việc này thì khó gì, tiêu diệt hết bọn hòa thượng cho ta! Theo lệnh của Lý Triền, Phật giáo bị tàn phá, tận diệt trên toàn bộ “đế quốc Đại Đường”. Sự việc xảy ra vào năm Hội Xương, nên sử sách gọi đây là “pháp nạn Hội Xương”.
Hình minh họa
Lần “tiêu diệt” Phật giáo của Lý Triền mặc dù không đẫm máu như lần diệt Phật giáo của Thái Vũ Đế của nhà Bắc ngụy nhưng lại là lần gây ra những tàn phá nghiêm trọng nhất đối với các cơ sở Phật giáo. Sử chép, trong suốt thời gian được gọi là “pháp nạn Hội Xương”, tổng cộng có 4600 ngôi chùa bị đập bỏ, số hòa thượng và ni cô buộc phải hoàn tục tổng cộng lên tới 260 ngàn  người. Sau “kiếp nạn” này, ở Trường An và Lạc Dương chỉ còn khoảng 10 ngôi chùa, mỗi ngôi chùa chỉ còn khoảng 10 tăng nhân. Ngoài ra, tất cả các tài sản trong chùa chiền bị phá đều bị Lý Triền “sung công”, tượng phật bằng vàng, bạc đều đúc thành tiền để tiêu.

Trong suốt thời kỳ thống trị của nhà Đường, Phật giáo thịnh hành nhất vào thời kỳ nữ hoàng Võ Tắc Thiên. Bởi lẽ, Võ Tắc Thiên vốn không phải họ Lý nên nữ hoàng này chẳng có bao nhiêu cảm tình với Đạo giáo của vị Thái thượng lão quân Lý Nhĩ mà nhà đường tôn làm ông tổ. Ngược lại, Võ Tắc Thiên dành mọi sự sùng kính của mình cho Phật giáo.

Dưới sự trợ lực của một nữ hoàng quả đoán và quyết liệt, Phật giáo dưới thời kỳ Võ Tắc Thiên phát triển một cách mau chóng. Tuy nhiên, khi số lượng chùa chiền, tăng nhân ngày một đông, địa vị ngày một cao thì những mâu thuẫn, đố kỵ, ganh ghét thậm chí là những tiêu cực bắt đầu nổ ra. Và việc Lý Triền ra lệnh “phế bỏ Phật giáo” ngoài mục đích dẹp đường cho việc “cầu tiên” còn là để cân bằng lại địa vị giữa các tôn giáo, duy trì địa vị thống trị của tông tộc mình. 

Tuy nhiên, cùng lúc với cuộc vận động tiêu diệt Phật giáo, Lý Triền cũng tự tiêu diệt mình. Trong suốt một thời kỳ dài uống thứ gọi là tiên dược nên hàm lượng kim loại nặng tích tụ trong người Lý Triền đã vượt quá “tiêu chuẩn”, bắt đầu sinh bệnh. Đến năm Hội Xương thứ 6, tức năm 846 thì Lý Triền nhận được thông báo “bệnh tình nguy kịch” của ông tổ Thái thượng lão quân. 

Triệu Quy Chân lúc này vẫn tiếp tục lừa phỉnh Lý Triền, nói rằng, chữ trong chữ “Triền” trong tên húy của Vũ Tông thuộc về mệnh thủy, không phù hợp với đức thổ mà triều Đại Đường tôn thờ. Vì vậy, căn cứ theo nguyên lý tương sinh tương khắc của ngũ hành thì Triền sẽ bị thổ khắc chế. Cách để phá giải là Vũ Tông nên đổi tên từ Triền thuộc thủy thành Viêm thuộc hỏa. Có như vậy mới có thể thắng được sự khắc chế của mộc. 

Có bệnh thì vái tứ phương, Lý Triền trong lúc bệnh tình nguy kịch, không còn biết cầu trợ ai, nghe theo lời Triệu Quy Chân đổi tên thành Lý Viêm. Tuy nhiên, việc đổi tên chẳng giúp Lý Triền sống thêm được mấy ngày, ngược lại khiến ông ta chết nhanh hơn. Ngày 23/3/846, tức 12 ngày sau khi làm lễ đổi tên, Vũ Tông đã từ giã cõi đời. Về phần cô gái lầu xanh đã giúp Lý Triền lên ngôi, ngay sau cái chết của Lý Triền cũng treo cổ tự tử để “trọn tình trọn nghĩa”. Thiết nghĩ, có được một người tri âm tri kỷ như vậy, Lý Triền có chết cũng chẳng phải ân hận điều gì.
Phong Nguyệt

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen