HAI CÁI BÁNH CHƯNG
Chiếc đồng hồ báo thức, cũ kỹ, rẻ tiền của nước Rumani sản xuất thường tìm thấy ở các tiệm K-Mart đã nằm yên bất động trong hộc tủ từ nhiều năm qua. Người chủ nhân không buồn sử dụng. Mua để mà có. Ðể mà vững tâm những lúc cần phải thức dậy sớm. Nhưng hình như, Xuân chưa bao giờ dùng đến. Chưa bao giờ chiếc đồng hồ kia có dịp ngân nga hồi chuông báo thức để chứng tỏ sự hữu dụng của mình.
Từ mười năm qua, thời khắc ấn định cho một ngày làm việc, đối diện với những sinh hoạt thường nhật đã trở thành một thói quen trong đời sống. Ðịnh luật bất biến của Xuân là sống, kiên trì, nhẫn nại quyết tâm tạo dựng một tương lai. Xuân phải trả giá rất đắt cho sự ra đi. Chàng không thể nào quên bổn phận đối với gia đình, đối với những người thân yêu còn ở bên kia bờ cách biệt. Mỗi buổi sáng, như thường lệ, Xuân đến tòa soạn lúc 9 giờ. Ly cà phê sữa đá đậm đặc là món điểm tâm duy nhất cho nửa ngày.
Con đường Santa Clara đã trở thành người bạn thân thiết nhất của Xuân. Ðoạn đường từ nhà đến tòa soạn có bao nhiêu căn nhà, bao nhiêu ngã tư, bao nhiêu ngọn đèn, bao nhiêu người khách bộ hành, bao nhiêu chiếc xe chạy... Xuân như tính nhẩm được. Có những buổi sáng dầy đặc sương mù, thời tiết băng giá, hàng phong bên đường xuống thấp tiềm ẩn giữa khung trời gợi nhớ. Xuân mơ màng liên tưởng đến những năm tháng tuyệt vời ở quê cũ, năm tháng đã cho chàng một cảm nhận về quê hương. Quê hương là mẹ, kết tựu thành tình yêu son sắt, thủy chung. Xuân rất dễ bị xúc động khi liên tưởng đến những cảnh vật, một thoáng nhìn nào đó mơ hồ như giữa góc trời của tuổi thơ. Cảnh thổ yên bình không dữ tợn, không chinh chiến khói lửa là điều mà mọi người thầm ước, mong đợi. Cái ước mơ duy nhất của một con người là không hận thù, không chia rẽ, không sát hại lẫn nhau.Chiếc đồng hồ báo thức, cũ kỹ, rẻ tiền của nước Rumani sản xuất thường tìm thấy ở các tiệm K-Mart đã nằm yên bất động trong hộc tủ từ nhiều năm qua. Người chủ nhân không buồn sử dụng. Mua để mà có. Ðể mà vững tâm những lúc cần phải thức dậy sớm. Nhưng hình như, Xuân chưa bao giờ dùng đến. Chưa bao giờ chiếc đồng hồ kia có dịp ngân nga hồi chuông báo thức để chứng tỏ sự hữu dụng của mình.
Từ mười năm qua, thời khắc ấn định cho một ngày làm việc, đối diện với những sinh hoạt thường nhật đã trở thành một thói quen trong đời sống. Ðịnh luật bất biến của Xuân là sống, kiên trì, nhẫn nại quyết tâm tạo dựng một tương lai. Xuân phải trả giá rất đắt cho sự ra đi. Chàng không thể nào quên bổn phận đối với gia đình, đối với những người thân yêu còn ở bên kia bờ cách biệt. Mỗi buổi sáng, như thường lệ, Xuân đến tòa soạn lúc 9 giờ. Ly cà phê sữa đá đậm đặc là món điểm tâm duy nhất cho nửa ngày.
Tạo vững cho mình một nhịp điệu sống, hòa trong công việc để lấp vào những chỗ trống dư thừa cũng rất là khó khăn. Xã hội này dễ dàng thăng tiến, nhưng cũng dễ dàng đẩy đưa con người đến chỗ bi quan. Tiết điệu là một khúc nhạc êm ả... Nhưng tiết tấu, nếu không dạo đúng sẽ là một bi trường kịch. Kịch tính của một diễn viên trên sân khấu thụ diễn phải đúng vai trò không khác gì ngoài đời.
Những ngày cuối năm đòi hỏi anh chị em trong văn phòng phải làm việc tận lực để hoàn tất cuốn niên giám điện thoại hàng năm. Chưa kể, chuẩn bị cho tờ báo Tết như một chút quà gửi đến bạn đọc trong dịp xuân về.
Không khí tòa soạn nhộn nhịp hẳn như một bức tranh sinh hoạt sống động. Ban biên tập viết đều tay không ngớt những bài này, bài nọ. Cô thư ký từ lâu vẫn chuyên trách về khâu trả lời điện thoại đã phải kiêm thêm phần đả tự viên. Văng vẳng những tiếng chuông điện thoại reng là những lời dặn dò của thân chủ; cho tôi một lời chúc Tết thật hay, sửa cho tôi phần đặc biệt giảm giá cho khách hàng trong năm mới, trình bày quảng cáo phải có cành mai, hoa hòe một chút cho có vẻ Tết nhứt, may ra, chúng tôi làm ăn phát đạt thì không quên đến quí báo. Không thể trễ mãng. Không thể chậm trễ là tiêu đề mà tòa soạn đã đặt ra. Giờ ăn trưa phải tại chỗ, khúc bánh mì ăn vội thì hay hơn. Anh chị em cộng tác mặc dù thấm mệt nhiều ngày nhưng cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ. Những câu bông đùa như một khích lệ giải tỏa nỗi mệt nhọc. Khói thuốc mờ mịt cả văn phòng, bản thảo ngổn ngang, giấy vung vãi nhiều nơi. Những bao rác chồng chất chưa kịp đem đổ. Thôi thì mặc kệ! Cứ xong việc rồi tính sau. Bừa bãi là tính dễ thương của người làm báo mà. Trong thời gian này, chúng tôi như quên hẳn phần tiếp đón văn hữu, bạn văn nghệ lâu lâu cũng ghé tạt qua tán dóc vài mẩu chuyện, nhưng hiểu được sự bận rộn của anh chị em nên nán lại một vài phút thì đi ngay. Cả thân chủ quảng cáo cũng vậy. Còn đọc giả thì nhặt nhanh tờ báo, kèm theo lời cảm ơn là vội vàng rời bước.
Một ngày nọ, không khí làm việc ở tòa soạn vẫn còn căng thẳng. Cánh cửa văn phòng vẫn như nhác chừng tiếp đón mọi người, bỗng có một người đàn ông dáng nhỏ bé, dựng chiếc xe đạp bên cạnh tường, khập khiễng chiếc nạng đẩy cửa bước vào, khuôn mặt hốc hác như mới vừa từ trại, đảo sang. Bằng một cử chỉ ngượng ngùng. Ông ta mời mua hàng. Hai cái bánh chưng gói vuông vắn trông đẹp mắt được lôi ra từ gói xách tay bị nhiều chỗ thủng. Dáng điệu từ tốn, lời quảng cáo của ông không có vẻ gì chuyên nghiệp của một người bán hàng rong. Mọi người mải mê với công việc nên không để ý người đàn ông đó cho lắm. Căn phòng làm việc của Xuân ở khuất mãi đằng sau nên ít khi chàng tiếp xúc với bên ngoài. Phần lại, chàng phụ trách quá nhiều việc nên phải dành hết thời gian giải quyết khối công việc tràn ngập. Hôm nay như có một linh cảm báo trước, cùng lúc người đàn ông bán hàng bước vào, Xuân cũng bước ra ngoài. Thoáng một chút tư lự là Xuân nhận ra ông ta ngay; người đàn ông ở huyện Ðiện Bàn cùng quê với chàng đây mà. Trong huyện lỵ ai mà không biết ông ta, tên ông là Phổ thì phải. Nhớ mỗi lần, ông từ thành phố về, bọn trẻ trong xóm kéo nhau vây kín căn nhà của ông để xin quà. Ông lúc nào cũng tốt bụng nên hay bớt phần của con cháu mình để ban phát cho bọn trẻ. Ở huyện, ai cũng mến ông ta vì những nghĩa cử cao đẹp, cách đối xử tử tế với người dân làng. Ai nhờ việc gì ông cũng giúp cả. Người ta truyền tụng những đức tính sáng ngời của ông. Có thể nói gia đình ông ta là một gia đình mẫu mực nhất trong làng, lại có người em học cao, làm cả huyện thơm lây. Vợ chồng ông rất thương yêu em mình. Nên ông, dù lương ba cọc ba đồng. Và vợ, phải buôn thúng, bán bưng nhưng cũng đã tần tiện quyết tâm lo cho người em học hành đến nơi đến chốn. Rồi cơ may đến, người em đậu tối ưu, được xuất ngoại du học. Lần chia tay, cả làng đưa tiễn. Trước tình thân sâu nặng của gia đình, đứa em đã thề thốt, hứa xứng đáng để mai sau đáp đền công ơn dưỡng dục của anh chị mình.
Thời gian thấm thoát trôi qua, điều không may xảy đến với ông. Chiến tranh đã cướp mất một phần thân thể của ông. Ông trở về làng với đôi nạng gỗ, phần chân bên trái bị một mảnh bom nên phải cưa hẳn. Khó khăn với đời sống của một người tàn tật, ông xoay qua nghề bán bánh mì ở bến xe, ngâm nga một vài câu vọng cổ để dễ bán hàng. Khách hiểu chuyện nên cũng mua giúp cho ông. Dù vậy, gia đình ông đã phải nhịn ăn, nhịn mặc, có được đồng nào ông gửi hết cho người em đang du học tại Mỹ.
Xuân rút vội tờ giấy bạc hai mươi Mỹ kim để mua hộ ông ta hai cái bánh chưng. Giá bánh chỉ năm đô mỗi cái, nhưng chàng không muốn nhận lại tiền thối. Ông ta không hề biết Xuân là người cùng quê, một đứa trẻ năm nào đã từng ngửa tay xin ông những món đồ chơi. Người đàn ông như gặp một sự xúc động, nghẹn ngào trong lời nói:
- Tôi mới đến Mỹ được hơn ba tháng nay, theo diện đoàn tụ.
Xuân hỏi:
- Sao ông không xin tiền trợ cấp?
- Tôi đi theo diện gia đình bảo lãnh nên ba năm sau mới được trợ cấp.
- Trường hợp của ông, vẫn có thể vay mượn được tiền chính phủ mà!
- Ðứa em tôi, nó Mỹ lắm, nó không bằng lòng cho tôi nhận. Nó sợ mang tiếng, nên nó không ký giấy cho tôi nhận theo sự đòi hỏi của sở xã hội.
- Như vậy thì anh ta phải lo cho ông đầy đủ chứ!
- Không! Nó bảo qua đây là phải tự túc. Nó chỉ cho ăn ở vài tháng thôi! Vợ tôi và sáu đứa con nhỏ không biết dựa vào đâu mà sống.
- Theo chỗ tôi biết, nếu gia đình ông ở riêng thì lập thủ tục xin tiền trợ cấp đâu có khó khăn gì. Và cũng đâu có ảnh hưởng đến người em ông. Ngay cả tiền tàn tật ông cũng có thể xin ngay mà!
- Ðứa em tôi đã bảo như thế, tôi không muốn nó giận.
- Các hội thiện nguyện có giúp đỡ ông không?
- Họ có giúp cho tôi một số quần áo cũ, còn công ăn việc làm thì phải chờ. Tôi không biết chừng nào mới được đi làm. Mà như anh thấy đó: Tàn tật và không biết tiếng Anh, tiếng u như tôi thì có thể làm được gì. Bây giờ, tôi chỉ có mỗi việc là gói bánh chưng. Chưa chắc là ngon nữa. Anh đã giúp thì tôi mới dám nói: Trong dịp Tết này, tôi bán khá lắm, chỉ ngại ra giêng, không biết phải xoay ra nghề gì.
Mẫu chuyện với người đàn ông bán bánh chưng đã làm Xuân suy nghĩ. Chàng không thể hình dung được ở xứ sở này lại có một người Việt Nam lâm vào cảnh khốn cùng. Thân tàn phế, cỡi chiếc xe đạp khắp khu thị tứ người Việt để rao bán bánh chưng. Lời rao của ông có đến được tai người nghe hay không? Hay lúc nào đó, ông bị một trắc trở, nguy hiểm. Dưới con dốc dài, làm sao ông chống đỡ những họa hoằn dễ dàng xảy đến? Ðây có phải là một thảm kịch của những gia đình Việt Nam không?
Ðất nước này đã cho ông một đời sống tự do, hay đã đánh mất của ông một tình huyết nhục?
đỗ vẫn trọn

Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen