Nỗi đau thời chiến
Tết mâu Thân qua đi đã mấy tháng mà người dân xứ Huế vẫn chưa hết hoàn hồn. Đâu đày vẫn còn nghe tiếng khóc nỉ non của những gia đình có than nhân bị phiá bên kia bắt đi từ ngày Tết mà chưa tìm được tin tức.
Thời tiết lạnh lăm thâm, mưa còn dai dẳng làm, tăng them vẻ hoang lạnh, tiêu điều của thành phố.
Hình ảnh chiếc cầu Trường Tiền tiêu biểu của xứ Huế đã bị gãy đổ, làm cho người dân them nhức nhối như chính khúc ruột mình bị đứt đoạn.
Thời tiết lạnh lăm thâm, mưa còn dai dẳng làm, tăng them vẻ hoang lạnh, tiêu điều của thành phố.
Hình ảnh chiếc cầu Trường Tiền tiêu biểu của xứ Huế đã bị gãy đổ, làm cho người dân them nhức nhối như chính khúc ruột mình bị đứt đoạn.
Cho dù đau buồn đến đâu đi nữa thì cái thực tế của cuộc sống buộc con người cũng phải lo mưu sinh trởi lại.
Mọi sinh hoạt bát đầu măc dù trên nét mặt cuả người dân Huế vẫn còn đầy vẻ hoảng hốt, sợ sệt Trong Thành phố, nhà cửa, trường học dường sá, chộ bùa nơi nào bị sụp dổ trong toàn chiến dần dần được tái thiết.
Láng giềng ơi ới gọi nhau đi xếp hang chờ nhận thực phẩm, áo quần cũa chính phủ cấp phát từ hang viện trợ Mỹ, những tấm tồn mè, mỏng dính, nhẹ tènh tạm thời dung, nhà lên dể ở. Ánh nắng chói chang của mùa hè rực sang lên màu tôn như nhắc nhở nỗi kinh hoàng của mọi người.
Bây giờ bũa cơm chiều được ăn sớm hơn thường nhật. Chạng vạng, tối là không ai bảo ai, nhà nhà âm thầm đóng cửa kín mít mặc dù cái nóng của mùa hè như thiêu như đốt. Dường sá vắng hoe không còn nghe tiếng cười giỡn, no đùa của lũ trẻ vào những đêm trăng sang. Xa xa nghe chó sủa là mọi người trong gia đình co cụm lại im thin thít tưởng chừng những bong đen trở lại ẩn núp đâu đó ở bên ngoài.
Năm ấy Sấm vừa tròn 15 tuổi. Là anh cả của đàn em bốn đứa. Ba Sấm là quân nhân. Mẹ Sấm có sap hang bán guốc ở chợ nhỏ gần nhà. Cuộc sống gia đình sung túc. Sấm ngoài viêc học tối về phụ giúp ba mẹ dạy dỗ đàn em học hành, làm bài vở. Đêm đêm bên chiếc bàn học cuối góc bên trái là ba ngồi nghe tin tức chiến sự từ chiếc radio hoặc có khi ba đọc báo. Góc phải bên ấy mấy an hem bọc bài.
Em Tuán học lớp 7 với cuấn giảng văn câp nhât hóa mà Sấm thích đọc nhất là bài văn của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn. Chuyện kể:
“Một anh lính nhảy dù cùng đơn vị chuyển quân ngang qua một ngôi làng thuộc vùng xôi đậu…Bèn nầy song là lính quốc gia, bên kia sông tối về là du kích từ trong núi ra. Khi đoàn quân đi gằn đến chiếc cầu. Có 1 em bé từ đâu chạy ra máu me đầy người nằm vât giữa cầu quằn quai khóc la. Anh lính Dù động long nhân muốn nhảy ra cứu giúp em nhưng bạn đồng đội của anh cương quyết ngăn cản vì họ tìn rằng em bé trai kia chỉ là thủ đoạn của phía bên kia. Nếu anh rat ay cứu em thì anh lại là con mồi ăn đạn. Ngần ngừ chốc lát, anh lính Dù bước đi theo đoàn quân mà trong long cứ ray rứt, băn khoăn…”
Sấm đọc hoài câu chuyện không biết chản rồi nhắm mắt nhớ lại những hình ảnh gian khổ của các chiến sĩ ngoài mặt trận, nhũng nạn nhân bị chon sống trong biến cố Mậu Thân hoàc trên trang báo hoặc xem Tivi. Nhú có một động lực nào thúc đẩy thêm lòng yêu quê hương mà nó đã nằm trong tâm tư Sấm không biết tù bao giờ?
Ngày tháng dần trôi. Khoảng hai năm sau biến cố Mậu Thân, phiá bên kia bắt đầu trò chơi pháo kích. Pháo liên tục vào thành phố giữa thanh thiên bạch nhật gây chết chóc cho dân lành vô tội.
Năm giờ chiều ba Sấm đang ngồi đọc báo. Chợt ông nghe một tiếng rít trên không tưởng chừng xé tan bầu trời. Kinh nghiệm chiến trường cho ông biết tiếng đạn của địch pháo kích. Ông đẩy nhanh tui nhỏ ngồi dưới gầm bộ phảng. Rồi như một phản ứng tự nhiên ông chụp vội tờ báo lên đầu đoạn đi mau ra, phía cửa hông gọi vệ và con li đạng dọn dẹp ở nhà bếp. Sấm nghe tiếng chân bước hấp tấp của ba người yên chỗ ngồi. Sấm nghe mạ nói: Ông làm như tờ báo tránh đạn được cho Ông? Rồi mạ chắp tăy lầm thầm khấn nguyện. Mấy đưá nhỏ ngơ ngác nhìn nhau. Đêm ấy mọi người đều mất ngủ.
Tờ mờ sáng, Sấm nghe tiếng lao xao ngoài đường. Hàng xóm đi lại bàn tán, hỏi chuyện nhau:
- Nghe mô bà Hai bán rau ngoài chợ chết rồi. Ở mé hồ cổng Vĩnh Lợi đó!
Người khác lên tiếng:
- Thiệt tình mấy cha nội… Làm bài toán cọng, trừ, nhân, chia… không xong cứ nhè dân lành mà hỏi thăm sức khỏe…
Đến giờ đi học mạ dán dò Sấm cẩn thận, học xong về nhà liền. Sấm dạ qua loa rồi tiện đường Sấm cũng ghé coi sự cố.
Pháo bên kia nhắm mục tiêu sân bay Tây Lọc, đùng nhơ lời chú Đạt pháo không, trúng đích mà rớt mé bờ hồ, miểng đạn từ qủa, pháo văng raghim thẳng vào mình bà Hai đang hái rau bên cạnh. Bà Haichết tức tưởi dưới hồ. Máu chảy còn đỏ, loang cả dòng nước. Mọi người xúm quanh chỉ chỏ. Hồ Vĩnh Lợi nằm trước mặt sân bay. Bên kia hồ là đồn quân cụ, sát đốn. Quân cụ phiá tay phải là trai Hắc Báo. Nhà bà Hai đối diện đồn Quân cụ gia đình bà quanh năm sinh sống bằng nghề trồng rau muống trên hồ. Qua mùa Hạ, bác trai thả sen. Tới mùa sen nở, hoa đan kín mặt hồ rới. Sặc hồng sắc trắng tỏa hương thơm ngát. Ai đi qua cống Vĩnh Lợi mà không một lần dừng chân nhìn thẳng lên cống Thủy quan sen xanh ngát một màu mà nhớ một thời xa xưa của đất Thần Kinh.
Năm giờ chiều ba Sấm đang ngồi đọc báo. Chợt ông nghe một tiếng rít trên không tưởng chừng xé tan bầu trời. Kinh nghiệm chiến trường cho ông biết tiếng đạn của địch pháo kích. Ông đẩy nhanh tui nhỏ ngồi dưới gầm bộ phảng. Rồi như một phản ứng tự nhiên ông chụp vội tờ báo lên đầu đoạn đi mau ra, phía cửa hông gọi vệ và con li đạng dọn dẹp ở nhà bếp. Sấm nghe tiếng chân bước hấp tấp của ba người yên chỗ ngồi. Sấm nghe mạ nói: Ông làm như tờ báo tránh đạn được cho Ông? Rồi mạ chắp tăy lầm thầm khấn nguyện. Mấy đưá nhỏ ngơ ngác nhìn nhau. Đêm ấy mọi người đều mất ngủ.
Tờ mờ sáng, Sấm nghe tiếng lao xao ngoài đường. Hàng xóm đi lại bàn tán, hỏi chuyện nhau:
- Nghe mô bà Hai bán rau ngoài chợ chết rồi. Ở mé hồ cổng Vĩnh Lợi đó!
Người khác lên tiếng:
- Thiệt tình mấy cha nội… Làm bài toán cọng, trừ, nhân, chia… không xong cứ nhè dân lành mà hỏi thăm sức khỏe…
Đến giờ đi học mạ dán dò Sấm cẩn thận, học xong về nhà liền. Sấm dạ qua loa rồi tiện đường Sấm cũng ghé coi sự cố.
Pháo bên kia nhắm mục tiêu sân bay Tây Lọc, đùng nhơ lời chú Đạt pháo không, trúng đích mà rớt mé bờ hồ, miểng đạn từ qủa, pháo văng raghim thẳng vào mình bà Hai đang hái rau bên cạnh. Bà Haichết tức tưởi dưới hồ. Máu chảy còn đỏ, loang cả dòng nước. Mọi người xúm quanh chỉ chỏ. Hồ Vĩnh Lợi nằm trước mặt sân bay. Bên kia hồ là đồn quân cụ, sát đốn. Quân cụ phiá tay phải là trai Hắc Báo. Nhà bà Hai đối diện đồn Quân cụ gia đình bà quanh năm sinh sống bằng nghề trồng rau muống trên hồ. Qua mùa Hạ, bác trai thả sen. Tới mùa sen nở, hoa đan kín mặt hồ rới. Sặc hồng sắc trắng tỏa hương thơm ngát. Ai đi qua cống Vĩnh Lợi mà không một lần dừng chân nhìn thẳng lên cống Thủy quan sen xanh ngát một màu mà nhớ một thời xa xưa của đất Thần Kinh.
Bà Hai chết chưa kịp đưa đám thì tới phiên gia đình Bác Thơm. Cơm chiều xong, cả nhà quây quần trước hiên hóng gió. Nghe tiếng đạn bay vèo mọi người kéo nhau xuống hầm, không may qủa pháo rớt ngay hầm. Nhà Bàc Thơm chết trọn năm người.
Nhìn hình ảnh Bác trai vùa chui ra khòi miệng hầm, hai tay còn chống lên bậc cấp nhưng có lẽ sức đã yếu nên Bác chết trong tư thế đứng, mặt ngày hai tay Bác cháy đen. Sấm mất ăn mất ngủ tới máy ngày. Thỉnh thoảng trong bũa ăn Sấm nhắc lai. Mạ Sấm lớn tiếng nạt: Thôi, quên đi. Tội vong hồn Bác. Chầu mong cho gia đình Bác được siêu thoát. Bữa đó, hết thây thanh niên, nam nữ trong đoàn Nhân dân tự vệ, vài viên chức của phường đều đi tiễn đủa gia đình Bác Thơm.
Nhìn hình ảnh Bác trai vùa chui ra khòi miệng hầm, hai tay còn chống lên bậc cấp nhưng có lẽ sức đã yếu nên Bác chết trong tư thế đứng, mặt ngày hai tay Bác cháy đen. Sấm mất ăn mất ngủ tới máy ngày. Thỉnh thoảng trong bũa ăn Sấm nhắc lai. Mạ Sấm lớn tiếng nạt: Thôi, quên đi. Tội vong hồn Bác. Chầu mong cho gia đình Bác được siêu thoát. Bữa đó, hết thây thanh niên, nam nữ trong đoàn Nhân dân tự vệ, vài viên chức của phường đều đi tiễn đủa gia đình Bác Thơm.
Tội hơn hết là cái chết của Cu Quang 10 tuổi. Buổi tối em qua nhà hàng xóm coi Tivi. Chương trình đố vui dể học. Chợt nghe tiếng pháo. Anh Tiến tắt vội Tivi và đưa mấy đứa nhỏ vô hầm. Cu Quang nhanh chân chaỵ về nhà. Xui xẻo, bữa đó nhà em trúng pháo. Ba mẹ con cùng chết, ba Quang là quân nhân đang bành quân đâu đó ngoài Quãng Trị. Sấm vuết mất cho em mà lòng quặn thắt. Càng chứng kiến Sấm càng nung nấu căm hờn. Có lúc Sấm nghĩ một ngày nào đó Sấm sẽ vào quân ngũ.
Rồi chiến tranh ngày càng gần. Khi đoàn người từ Quãng Trị lũ lượt gánh gồng, bồng bế chạy trốn Bẳc: Phương vào tận Huế. Thành phố vốn trầm lặng muôn thủơ bỗng nhến nháo bẳn lên. Dàn vùng chiến nạn tập trung sống lây lất hai bên bờ sông Hương. Họ bờ phờ, tiều tụy lính hành quân từ trong ra tiếp ứng làm sôi động cả con đường Trần Hưng Đạo.
Mùa hè đỏ lửa đánh dấu thêm một lần nữa tai họa đau thương cho người dân vùng hỏa tuyến. Lan và Sấm cùng các ban thanh niên thiện chí đi thăm hỏi từng gia đình. Tiếp tế cho họ chút lương thực, thuốc men, nước uống. Nhìn cảnh mẹ già, em thơ đầu quấn khăn tang, mắt còn hoen lệ. Gạp Huyền, người con gái có cái tên đẹp như mái tóc của nàng trong nước da trắng ngần, có lẽ cùng trang lứa với lan. Sấm lên tiếng hỏi:
- Gia đình có ai bị kẹt lại không chị?
Huyền bật khóc nức nở. Mạ Huyền mệu máo kể:
- Cha mấy cháu mất không lấy được xác cháu ơi!
- Ở đoạn cầu Dài đó. Pháo cách chi mà pháo…
Sấm xin lỗi Bác gái vô tình khơi dậy nỗi buồn của gia đình, an ủi vài lời rồi vòng ra nơi khác.
Cảnh tượng thật đau thương…
Chiến tranh thật phi lý. Bên cạnh nỗi mát của người này. Kẻ khác lơi dụng chiến tranh để làm giàu có không ít. Người hi sinh vì chiến tranh ngày càng nhiều. Quanh các phường trong thành phố. Những đàn anh của Sấm đã lần lươt ra đi vì Tổ Quốc.
- Gia đình có ai bị kẹt lại không chị?
Huyền bật khóc nức nở. Mạ Huyền mệu máo kể:
- Cha mấy cháu mất không lấy được xác cháu ơi!
- Ở đoạn cầu Dài đó. Pháo cách chi mà pháo…
Sấm xin lỗi Bác gái vô tình khơi dậy nỗi buồn của gia đình, an ủi vài lời rồi vòng ra nơi khác.
Cảnh tượng thật đau thương…
Chiến tranh thật phi lý. Bên cạnh nỗi mát của người này. Kẻ khác lơi dụng chiến tranh để làm giàu có không ít. Người hi sinh vì chiến tranh ngày càng nhiều. Quanh các phường trong thành phố. Những đàn anh của Sấm đã lần lươt ra đi vì Tổ Quốc.
Thế rồi, điều mà Sấm mơ ước cũng đã đến. Lệnh tổng động viên ban bành. Sấm và bạn bè cùng trang lứa vui vẻ lên đường nhập ngũ.
Khi chuyến xe cuối cùng chở Sấm và các bạn ra tới cổng Trung tâm nhập ngũ. Lan và Hà vẫy tay chào xong hai đứa đi bộ về nhà. Nắng ha rưng rưng buồn như màu mắt của Lan. Thấy Lan im lặng Hà e dè nhưng rồi hăn phá tan bầu không khí buồn tẻ bằng cách gợi chuyện:
- Ba mạ anh Sấm khéo đặt tên con mi hí. Với khuôn mặt rắn rõi, tướng dáng hùng dũng thừ hôi làm răng anh không là con nhà võ.
Lan tâm sự:
- Anh Sấm mê làm lính lắm. Hồi còn nhỏ cứ mỗi lần thấy bác Nghĩa về phép là anh cứ mân mê mấy cái huy chương chi đó của Bác. Anh thích lắm chiếc thẻ bài đeo ở cổ.
Dọc đường, tuy là nói chuyện với Hà nhưng Lan cứ lơ mơ nhớ về những kỉ niệm của hai đứa. Lúc song song đạp xe lên ngự Bình về ngã ba Thánh gía rồi vòng qua Linh mụ. Đạp hoài khộng biết mỏi đôi chân. Có lúc mệt và khát nước Lan tìm bóng mát dưới gốc cây bên đường để nghỉ trong lúc anh Sấm loay hoay ở các bụi căy tìm hái những ngọn lá ăn được mà có mùi vị chua chua. Anh bảo Lan cố gắng ăn vào đỡ khát nước. Hoặc có lúc thả dốc cho xe xuống từ trên đồi Từ Hiếu. Lan bị ngã trầy chân, Sấm kiếm những thứ lá cầm máu đắp vào ngay. Lan phục anh hết biết. hơn Lan có một tuổi mà anh Sấm biết qúa nhiều. Vừa đi vừa nghe anh kể chuyện Anh Hùng Lương Sơn Bạc mà quên cả đường về…
Khi chuyến xe cuối cùng chở Sấm và các bạn ra tới cổng Trung tâm nhập ngũ. Lan và Hà vẫy tay chào xong hai đứa đi bộ về nhà. Nắng ha rưng rưng buồn như màu mắt của Lan. Thấy Lan im lặng Hà e dè nhưng rồi hăn phá tan bầu không khí buồn tẻ bằng cách gợi chuyện:
- Ba mạ anh Sấm khéo đặt tên con mi hí. Với khuôn mặt rắn rõi, tướng dáng hùng dũng thừ hôi làm răng anh không là con nhà võ.
Lan tâm sự:
- Anh Sấm mê làm lính lắm. Hồi còn nhỏ cứ mỗi lần thấy bác Nghĩa về phép là anh cứ mân mê mấy cái huy chương chi đó của Bác. Anh thích lắm chiếc thẻ bài đeo ở cổ.
Dọc đường, tuy là nói chuyện với Hà nhưng Lan cứ lơ mơ nhớ về những kỉ niệm của hai đứa. Lúc song song đạp xe lên ngự Bình về ngã ba Thánh gía rồi vòng qua Linh mụ. Đạp hoài khộng biết mỏi đôi chân. Có lúc mệt và khát nước Lan tìm bóng mát dưới gốc cây bên đường để nghỉ trong lúc anh Sấm loay hoay ở các bụi căy tìm hái những ngọn lá ăn được mà có mùi vị chua chua. Anh bảo Lan cố gắng ăn vào đỡ khát nước. Hoặc có lúc thả dốc cho xe xuống từ trên đồi Từ Hiếu. Lan bị ngã trầy chân, Sấm kiếm những thứ lá cầm máu đắp vào ngay. Lan phục anh hết biết. hơn Lan có một tuổi mà anh Sấm biết qúa nhiều. Vừa đi vừa nghe anh kể chuyện Anh Hùng Lương Sơn Bạc mà quên cả đường về…
Cùng một lúc Lan nhận được thư Sấm từ quân trường, gởi về và giấy báo Lan đậu vào sư phạm Huế. Ba mạ vui mừng khồng tả xiết. Mạ buôn tảo bán tấn dành dụm mua cho Lan sợi dây chuyền làm qùa. Ba thì quyết định cho Lan nấu nướng mời bạn bè tới nhá ăn mừng đỗ đạt.
Đêm ấy nhằm rằm tháng 7. Dưới ánh trăng vằng văc ben Lan đàn hát cho nhau nghe. Mỹ Thuận với “Tôi đi giữa hoàng hôn”, Tâm “Quê mẹ”, Tố Cần, “Đêm thu”. Lan viết thư cho Sấm không quên kể chuyện Minh “gầy” hát tặng Lan và Sấm bản nhạc “Cô láng giềng”. Sấm trả lời thư kể chuyện quân trường. Cực khổ, gian lao, đôi lúc muốn trốn mà nhìn lại dồng đội quanh mình, các chiến sĩ ngoài mặt trận rồi tất cả moi người đều vượt qua. Sấm viết và đóng khung tặng Lan câu: “Thao trường để mờ hồi, chiến trường bỏt đổ máu.”
Đêm ấy nhằm rằm tháng 7. Dưới ánh trăng vằng văc ben Lan đàn hát cho nhau nghe. Mỹ Thuận với “Tôi đi giữa hoàng hôn”, Tâm “Quê mẹ”, Tố Cần, “Đêm thu”. Lan viết thư cho Sấm không quên kể chuyện Minh “gầy” hát tặng Lan và Sấm bản nhạc “Cô láng giềng”. Sấm trả lời thư kể chuyện quân trường. Cực khổ, gian lao, đôi lúc muốn trốn mà nhìn lại dồng đội quanh mình, các chiến sĩ ngoài mặt trận rồi tất cả moi người đều vượt qua. Sấm viết và đóng khung tặng Lan câu: “Thao trường để mờ hồi, chiến trường bỏt đổ máu.”
9 tháng quân trường qua nhanh. Sấm được bổ sung vào binh chủng Thủy Quân Luc Chiến (TQLC), trước khi ra trình diện đơn vị ở Hải Lăng, Sấm được mấy ngày thăm nhà. Chuyện trò với ba mạ, em út rồi cúng Lan lòng vòng thành phố gặp bạn bè và vội vã chia tay…
Lan trở lại trường tiếp tục việc hoc, chuẩn bi cho phần thi cử cuối cùng để kệt thúc hại năm sư phạm. Ngày nhận nhiệm sở Lan thật bất ngờ khi cầm giấy bỏ nhiệm ra ưu Điềm. Như vậy nơi làm việc của hai đứa cũng thuận đường. Tết năm đó Sấm và Lan lên lễ chùa để tạ ơn trời phật.
Sau Hiệp định Paris tình hình lăng dịu hơn nhưng Sấm bảo lúc nào anh và đồng đội cũng phải ở thế phòng thủ không tin tưởng được bọn Bắc phương. Thỉnh thoảng đơn vị vẫn có những binh sĩ bị bắn sẻ.
Những lúc dừng quân, đơn vị Sấm cùng nhau sinh hoạt, sáng sớm chạy thể dục quanh làng, khi thì làm công tác dân sự vụ giúp dân dựng lại nhà cửa. Dân vùng mới hồi cư cuộc sống vẫn còn thiếu thốn nhiều. Vẫn còn những vành khăn tang trên đầu các cô nhi, góa phụ. Sấm chạnh lòng nghậm khẽ:
“Quê ai không khăn trắng. Chắc cũng có maù tang”
Có lúc cuối tuần Lan theo xe đò ra thăm Sấm. Hà bạn Lan cũng dạy ở Hải Chánh. Ba đứa gặp nhau có dịp lang thang qua những đồi sim. Sấm hái Sim chín đầy nhóc một nón sắt cho Lan và Hà xong vội vàng trở về chổ đóng quân. Cũng có lúc xin phép đơn vị trưởng vào thăm Lan không báo trước. Nhớ nhất Hà buổi học chiều cưối tuần tan đang nằn nót viết bài trên bảng cho các em khi xoay lưng lại tan thấy Sấm ngồi sừng sừng dưới góc bàn cuối lớp tù bao giờ? Lan xúc động không nói thành lời. Sấm tình bỏ đưa tay phải lên cao rồi nói:
- Thưa cô em là học sinh mới nhận lớp.
Lũ học trò quay đầu nhìn Sấm cười khúc khích. Sấm lên văn phòng thăm thầy Hiệu trưởng chờ Lan tan buổi học. Chiều đến hai đứa ra chợ kiếm quán ăn. Mấy dì bán hàng nhìn Lan và Sấm tầm tắc khen: “Cô, cậu đẹp đôi qúa”. Lan thấy vui vui lòng hân hoan trong màu mũ xanh của Sấm.
Trên đường đi về nhà Lan ở trọ. Gặp phụ huynh học sinh Hết O tới thím ai cũng đón đường hai đứa thăm hỏi đôi câu rồi dì thì cho bọc cam có O nhét cho bằng được chục trái quýt. Cam thanh, quýt ngọt, mít vàng, dừa xanh từ các vườn nhà ưu Điềm đổ ra. Mía bạt ngàn, chè xanh ngắt. Quê hương mình đẹp qúa. Buồn thay bầu không khí chiến tranh vẫn còn giăng mắc… Sấm vừa đi vừa hát bản Hùng ca: “Việt nam quê hương ngạo nghễ”. Không dưng hai đứa nắm tay nhau thặt nồng nàn, như có điều chi hứa hẹn..Tình cảm lớn dần theo thời gian nhưng cả hai cùng hẹn thề:
- Mới ra trường tụi mình cần có chút ít thời gian để sửa soạn cho tương lai hơn nữa cần phải phục vụ và trả ơn cho gia đình và xã hội..trước.
Những lúc dừng quân, đơn vị Sấm cùng nhau sinh hoạt, sáng sớm chạy thể dục quanh làng, khi thì làm công tác dân sự vụ giúp dân dựng lại nhà cửa. Dân vùng mới hồi cư cuộc sống vẫn còn thiếu thốn nhiều. Vẫn còn những vành khăn tang trên đầu các cô nhi, góa phụ. Sấm chạnh lòng nghậm khẽ:
“Quê ai không khăn trắng. Chắc cũng có maù tang”
Có lúc cuối tuần Lan theo xe đò ra thăm Sấm. Hà bạn Lan cũng dạy ở Hải Chánh. Ba đứa gặp nhau có dịp lang thang qua những đồi sim. Sấm hái Sim chín đầy nhóc một nón sắt cho Lan và Hà xong vội vàng trở về chổ đóng quân. Cũng có lúc xin phép đơn vị trưởng vào thăm Lan không báo trước. Nhớ nhất Hà buổi học chiều cưối tuần tan đang nằn nót viết bài trên bảng cho các em khi xoay lưng lại tan thấy Sấm ngồi sừng sừng dưới góc bàn cuối lớp tù bao giờ? Lan xúc động không nói thành lời. Sấm tình bỏ đưa tay phải lên cao rồi nói:
- Thưa cô em là học sinh mới nhận lớp.
Lũ học trò quay đầu nhìn Sấm cười khúc khích. Sấm lên văn phòng thăm thầy Hiệu trưởng chờ Lan tan buổi học. Chiều đến hai đứa ra chợ kiếm quán ăn. Mấy dì bán hàng nhìn Lan và Sấm tầm tắc khen: “Cô, cậu đẹp đôi qúa”. Lan thấy vui vui lòng hân hoan trong màu mũ xanh của Sấm.
Trên đường đi về nhà Lan ở trọ. Gặp phụ huynh học sinh Hết O tới thím ai cũng đón đường hai đứa thăm hỏi đôi câu rồi dì thì cho bọc cam có O nhét cho bằng được chục trái quýt. Cam thanh, quýt ngọt, mít vàng, dừa xanh từ các vườn nhà ưu Điềm đổ ra. Mía bạt ngàn, chè xanh ngắt. Quê hương mình đẹp qúa. Buồn thay bầu không khí chiến tranh vẫn còn giăng mắc… Sấm vừa đi vừa hát bản Hùng ca: “Việt nam quê hương ngạo nghễ”. Không dưng hai đứa nắm tay nhau thặt nồng nàn, như có điều chi hứa hẹn..Tình cảm lớn dần theo thời gian nhưng cả hai cùng hẹn thề:
- Mới ra trường tụi mình cần có chút ít thời gian để sửa soạn cho tương lai hơn nữa cần phải phục vụ và trả ơn cho gia đình và xã hội..trước.
Thế nhưng tình hình chiến sự không như mọi người mong mỏi..Qua Tết 1975 bỗng dưng Lan mất liên lạc với Sấm. Hơn cả tháng trời không có tin tức chi. Thấy Lan lo âu, chị Hằng chủ nhà an ủi:
- Chắc cậu lại chuyển quân rồi đó. Chờ ba bữa nữa coi.
Một chiều tan trường Lan ghé chợ mua thức an thì mới hay dân từ Hải Lăng lái lục đục bồng bế chay bô từ ngoài đi trở về rần rần. Buổi chợ chiều trở nên tan tác, ai ai cũng hốt hoảng, theo đoàn người chạy loạn. Tiếp đến Hà từ Hải chánh ghé tìm Lan vẻ hớt hải:
- Anh Tiến chuyển quân rồi. Chú tài chỉ nói vắn tắt chừng nớ thôi. Bí mật quân sự mà. Hà vô Huế chừ…
Tiến là người yêu của Hà, lính mũ đen. Hai người gặp nhau khi Hà về dạy ở Hải Chánh.
Lan thật bối rối muốn tìm cách ra Hải Làng mà đoàn người đi vô thì càng lúc càng đông. Sáng hôm sau tới trường trong cảnh đường làng, chờ bửa rã rời. Thầy Hiệu trưởng tập họp giáo viên nói nhỏ lệnh di tản.
- Ai về Huế trình diện Ty Huế. Ai vào Đà Nẵng trình diện Ty Đà Nẵng.
Mọi người chia tay trong bùi ngùi. Giáo viên ở Huế vội vã guơ những vât dụng cần thiết ra đường đón xe đò về nhà. Chuyến xe chật ních người, kẻ đứng người ngồi chen lấn với mùi mờ hôi nồng nặc. Có chừng năm người lính áo quần lem luốc bụi đường, họ đi chân trần. Trông họ còn trẻ lắm. Lan đoán những người này có lẽ nhanh chân bỏ đơn vị chạy trước. Họ kêu khát và đói rã họng. Mấy dì đi buồn chuyến xùm lại, người biếu cái bánh chưng, dì thì đưa trái chuối. Họ vừa ăn vừa văng tục:
- Đ.M. mấy cha nội Bắc phương. Ăn yên ở yên không muốn. Muốn gì nữa đây. Má ơi! Đời lính tụi con khổ qúa!
Lan nhìn họ cũng cảm thấy sờ sợ..mà nghĩ cho cùng Lan cảm thông chọ họ. Cuộc đời lính trận hy sinh qúa nhiều.
Qua các trạm kiểm soát, xe phải dừng lại nên khi về đến nhà thì trời nhá nhém. Lan rã rời bước vô nhà, lũ em mừng rỡ ôm Lan túi tít..
Mạ đã chuẩn bị sẵn những tay nải áo quần để ngày mai đi chung chuyến xe vô Đà Nẵng với nhà Bác Nghĩa, chị Lan ơi!
- Ba mình cắm trại từ hôm qua rồi…
Mạ Lan ôn tồn nói:
- Ngày mai hai bà với bầy con 9, 10 đứa dắt díu nhau đi, cầy ơn trên phò hộ..tai qua nạn khỏi..
Xe cộ từ những nẻo đường trong thành phố và các vùng phụ cận đổ xe về ngã cầu Trường Tiền, cầu Mới để đi vô Đà Nẵng. Có tin vĩ tuyến 17 sẽ vươn dài tới ngang Đèo Hải Vân
Đoàn người di tản, bộ hành có, xe cộ có nuối đuôi nhau ngoằn ngoèo dài ngun ngút không thấy đầu đuôi…
Tới đèo Phú Gia bên kia nã pháo ầm ầm..Lưu thông tắc nghẽn, xe đang chạy có lúc thắng không kịp húc đuôi nhau lật xe. Người chết vì đạn pháo, người chết từ xe lật. Tiếng khóc la thảm thiết. Xác chết được mọi người giúp tay kéo ra đặt ngay ngắn bên vê đường la liệt như sắp cá. Lan nhăm mắt cầu nguyện. Mạ Lan cầm lòng không đậu khóc to lên:
- Con ơi! Cháu ơi!
Xe lên tới đỉnh Đèo Hải Vân thì đã nửa khuya. Sương xuống lạnh ướt cả bờ vai. Lần đầu tiến Lan thấm thía nỗi buồn đơn lạnh cưa anh chiến sĩ xa nhà trong một bài ca mà Lan đã từng nghe..
Cả nhà xuống xe nghỉ ngơi. Lan xếp hàng chờ nhận những chén cơm chan canh su nóng hổi, mùi tiêu thơm ngào ngạt, bốc hôi nghi ngút làm ấm bàn tay Lan, thật là đậm đà tình quân dân. Mấy đứa nhỏ ăn hau háu.
Bên cạnh cái lô cốt mấy anh lính lui cui nấu hết nồi nầy đến nồi khác để tiếp tế thức ăn cho dân chạy loạn. Nhìn họ Lan nghĩ đến Sấm lòng buồn xa vắng.
Vào tới Đà Nẵng, gia đình Bác Nghĩa về Thanh Bình. Nhà Lan vòng qua Sơn Trà.
Ở nhà chú Thảo hai tuần. Mạ và Lan ngày đêm mong ngóng tin Ba, tin Sấm. Qua ngày thứ 15 anh Quốc con chú Thảo theo tàu Hải Quân vê được tới nhà. Tóc tai, mặt mũi dài ngoằn.
Qua hôm sau mạ và Lan lội bộ về Đà Nẵng, đến bến Bạch Đằng tìm tung tích của Ba. Từng chiếc tàu H.Q chở cả rừng người áo trận đưa binh chủng từ Huế vào, lần lượt cập bến. Lan đứng ngoài hàng rào lưới thép mắc cá theo dõi từng bóng người mong tìm ra Ba và Sấm. Bác Nghĩa trai chờ đợi gần cả ngày chẵng nhận ra ai. Lan thò tay vô lỗ mắc cá ngoắc đại một người mặc quân phục rằn ri và la to:
- Anh ơi! Cho hỏi nhờ Anh ơi! Làm ơn giúp giùm.
Người lính đi sát lại hàng rào. Lan run run hỏi:
- Đơn vị của Sấm.... Giọng anh lùng bùng miền Bắc:
- Chịu thôi cô ơi! Tôi thuộc tiểu đoàn nhảy dù chả có biết ai bên Thủy quân lục chiến. Hai thằng bạn đời tôi chết trong giờ phút cuối của trận chiến ở góc một ngôi trường tiểu học Quảng Vinh làng phố lại mà xác cũng lấp vội vì đơn vị phải rút quân gấp gáp…
Lan nghe mà nghẹn ngào..một anh khác nhào tới nói giọng Nam:
- Về thôi cưng ơi! Nước mất nhà tan rồi!
Trời chiều ngã bóng. Hai mẹ con thầt thễu quay về tình cờ gặp Hồng, em Sấm & Sương chị con dì. Lan mừng rỡ hỏi thăm tin tức gia đình Hồng.
- Chẳng có tin tức chi hết chị ơi! Mạ em khóc cả ngày.
Rồi Hồng giới thiệu với Sương; Lan là bạn gái của Sấm. Sương thân mật nắm tay Lan và ngõ ý kêu gia đình Lan chuyển về Thanh Bình ở với nhà Bác Nghĩa:
- Khuya nay nhà Sương đi Sàigòn để nhà dì Nghĩa ở lại một mình la cảnh la người dì lo lắm.
Trở về Sơn Trà Lan để ý láng giềng chú Thảo lai chuẩn bị di tản. Mọi người cuống cuồng hơn khi bên địch pháo liên tục về phiá biển Tiên Sa. Mạ ra đường tìm xe lam đưa cả nhà về lại Thanh Bình. Vợ chồng chú Thảo la làng. Mạ vừa nói vừa khóc. Chú thím thông cảm.
- Tôi nóng ruột theo Ba mấy cháu rồi còn mấy không nữa. Răng không thấy không mô vê đât hết?
Mấy mạ con lục đục lên xe. Qua cầu Đa lá 1 đoạn tới gần bãi đất trống mênh mông có nắng cháy có thật nhiều dân chạy loạn tạm cư ở đó. Họ dựng lều sống tạm bợ dưới cái nắng tháng Ba mà nóng ngơ người. Phiá bên kia cách lề đường vài chục mét có chiếc phi cơ hạ cánh. Tất cả xe cộ đang chây trên đường đều phải dừng lại. Quân cảnh đi lại hai bên đường. Bác tài xuống xe chạt tới chạy lui nghe ngóng tin tức rồi Bác lên tiếng:
- Nghe nói Tướng Toàn đang trấn an dân chạy loạn. Phát cho họ ít chục ngàn ông ơi! Bác Tài Khôi hài nói.
Về tới Đà Nẵng mới thấy cảnh hỗn loạn. Kẻ lợi dụng đi hôi của đập phá thành phố lung tung. Người thất trận từ đâu kéo về. Từng đoàn quân áo quần nhếch nhác mặt mũi bơ phờ họ đi thành từng nhóm có người bất mãn kêu la khủng khiếp. Một nhóm chừng 5,7 người bất ngờ nắm tay nhau đi vòng quanh rồi dõng dạc hô to 1 điều chi đo, xe cộ qúa ồn ào Lan không nghe rõ chỉ biết 1 điều làm Lan xúc động mạnh khi nghe một tiếng nổ lớn. Tất cả thân xác họ ngã ngục. Dân chúng chạy tán loạn. Bác tài hú hồn rú ga xe chây nhanh rồi thả mạ con Lan dọc đường dù chưa đến Thanh Bình.
Nhà dì Hồng ở sát biển. Đêm nằm nghe sóng vỗ mà Lan buồn khôn nguôi khi hớ tới lời anh lính dù “nước mất nhà tan rồi”.. có lẽ vậy!
Cả nhà khật khờ chỉ có lũ trẻ cười đùa vô tư. Qua 26.3 Huế thật sự bơ ngơ. Lan hoàn toàn thất vọng..Sấm, Ba, Bác Nghĩa…
Mạ ngày đêm khấn nguyện. Lần luờt Đà Nẵng Sài Gòn mất. Lan nghe mà bàng hoàng. Sáng thức dậy ra chợ Lan thấy mấy thầy chùa ngồi trên xe cầm cờ MTGiải Phóng reo hò mà Lan bỡ ngỡ. Bác Nghĩa cũng từ chợ về bực dọc nói:
- Thiên hạ thiệt tình. Mới bữa trước, bữa sau mà trở mặt như trở bàn tay. Thấy họ nắm tay bà cổ, sờ vai mấy cha bộ đội mà tui ngứa máu sần sật..
Hàng xóm tụ năm, tụ ba bàn tán xôn xao. Một bác trai đã có tuổi xoa tay nói trống rỗng:
- Hết rồi giấc mộng xe hơi, nhà lầu..
Bác Nghĩa ghé tai mạ nói nhỏ:
- Ông giá ăn nói vô duyên. Biết bao người bô mạng chưa có tin tức, ở đó mà xe hơi, nhà lầu…
Mạ Lan kéo tay Bác đi về, thì thầm:
- Kệ chị ơi! Thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ là rứa đó!
Hai bà bàn bạc về lại Huế.
Thành phố hoạng lạnh tiêu điều. Về tới nhà, xóm giềng vắng vẻ. Có nhà vẫn chưa về. Có lẽ đi thẳng vô Sài Gòn. Nhà cửa bị bọn hôi của phá tan hoanh.
Mạ ra chợ gặp bạn hàng nghe dì sổ nói chồng dì đang học tập ngoài Hòa Mỹ chắc ít ngày nữa sẽ về. Có người mới về hôm tê. Mạ tìm tới nhà hỏi tin Ba. Mạ hớn hở quay về nhà thông báo cho Bác Nghĩa, mừng qúa mạ mua thức ăn quên trước quên sau. Mà chừ thì phải tiết kiệm lại. Xã hội đảo lộn cả rồi. Mới có hơn một tháng làng xóm thay đổi hẳn. Mọi người nhìn nhau e dè. Guồng máy chính quyền lạ hoắc, có những người từ trên rừng về, ngoài Bắc bô vô, khác hẳn dân miền Nam từ lời ăn tiếng nói, đi đứng, ăn mặc. Mạ than phiền:
- Thấy mà ngứa mắt! Hết rồi con ơi! Nhiều nhà bỗng dưng bị tịch thu. Gia đình chạy loạn về thì bơ vơ không nơi nương tựa nòi chi tới công ăn việc làm..Con cái thật sự đi vào một “khúc rẽ cuộc đời”.
Ở Huế đội ba ngày Lan sửa soạn ra trường cũ trình diện. Lan ghé nhà chị Hằng thăm trước. Đa số dạn địa phương không di tản. Chị Hằng cho Lan biết Thầy Hiệu trưởng mất chức rồi. Vô trường Lan sẽ biết.
Lan ngỡ ngàng khi gặp ông Hiệu trưởng mới từ Nghệ An vào. Lan chưng hửng cứ nghĩ rằng đó là Giáo chức, mấy “nàng” ở ngoài vô chiếm hết hai phần gọi là Giáo viên chi viên. Giáo viên địa phương phần lớn “mất dạy” họ xí phần cho người miền Bắc vào. Du bất mãn đã nhen nhúm ở người dàn địa phương…
Giáo chức tập trung vào ở tập thể theo chính sách chia để trị. Hai giác chức cồng với một giáo viên chi viện ở, chung một phòng đẻ dễ bề theo dõi trường có 5 giáo chức từ Huế ra bị chia ra 5 thôn. Thuận xui xẻo bị đưa ra tận Triệu Ái gần phi trường Ái tử..
Cuộc sống xuếng dốc. Ăn uống thiếu thốn. Tinh thần bị bừng bít. Cả tuần chỉ trông tối ngày thứ 5 họp Hội đồng để gặp nhạu e dè tâm sự: Mỹ Trang kể lể.
- Tau nhớ gia đình ra đúng cạnh bụi tre khóc mà tụi hắn cũng lên tiếng phê bình.
Bữa khác nghe ngọc Hòa nhỏ to:
- Ê! Con Thuận bị đảy về Triệu Độ. Cái xà nổi tiếng đầy du kích trước 1975 ở cái làng gia Độ.. Tau gặp anh bắn kể. Hắn liều mạng giấu 2 bánh đường đen ở bụi cây gần trường giúp cho mấy ông cải tạo ở Aí tử. Không ngờ có người thấy…
Nhà Thuận có xe đò chạy tuyến đường Huế. Đôn Hà Thuận dạy trường chính ngay quốc lộ, chiều thứ bảy theo xe nhà vô Huế. Sáng thứ hai lộn ra xe dừng ngang cổng trường. Cung cách đó làm tụi giáo viên chi viện gọi là “Tiểu tư sản”. Được dịp tụi hắn chơi Thuận tới bến luôn. Không bao lâu sau Thuận nghỉ việc!
- Chắc cậu lại chuyển quân rồi đó. Chờ ba bữa nữa coi.
Một chiều tan trường Lan ghé chợ mua thức an thì mới hay dân từ Hải Lăng lái lục đục bồng bế chay bô từ ngoài đi trở về rần rần. Buổi chợ chiều trở nên tan tác, ai ai cũng hốt hoảng, theo đoàn người chạy loạn. Tiếp đến Hà từ Hải chánh ghé tìm Lan vẻ hớt hải:
- Anh Tiến chuyển quân rồi. Chú tài chỉ nói vắn tắt chừng nớ thôi. Bí mật quân sự mà. Hà vô Huế chừ…
Tiến là người yêu của Hà, lính mũ đen. Hai người gặp nhau khi Hà về dạy ở Hải Chánh.
Lan thật bối rối muốn tìm cách ra Hải Làng mà đoàn người đi vô thì càng lúc càng đông. Sáng hôm sau tới trường trong cảnh đường làng, chờ bửa rã rời. Thầy Hiệu trưởng tập họp giáo viên nói nhỏ lệnh di tản.
- Ai về Huế trình diện Ty Huế. Ai vào Đà Nẵng trình diện Ty Đà Nẵng.
Mọi người chia tay trong bùi ngùi. Giáo viên ở Huế vội vã guơ những vât dụng cần thiết ra đường đón xe đò về nhà. Chuyến xe chật ních người, kẻ đứng người ngồi chen lấn với mùi mờ hôi nồng nặc. Có chừng năm người lính áo quần lem luốc bụi đường, họ đi chân trần. Trông họ còn trẻ lắm. Lan đoán những người này có lẽ nhanh chân bỏ đơn vị chạy trước. Họ kêu khát và đói rã họng. Mấy dì đi buồn chuyến xùm lại, người biếu cái bánh chưng, dì thì đưa trái chuối. Họ vừa ăn vừa văng tục:
- Đ.M. mấy cha nội Bắc phương. Ăn yên ở yên không muốn. Muốn gì nữa đây. Má ơi! Đời lính tụi con khổ qúa!
Lan nhìn họ cũng cảm thấy sờ sợ..mà nghĩ cho cùng Lan cảm thông chọ họ. Cuộc đời lính trận hy sinh qúa nhiều.
Qua các trạm kiểm soát, xe phải dừng lại nên khi về đến nhà thì trời nhá nhém. Lan rã rời bước vô nhà, lũ em mừng rỡ ôm Lan túi tít..
Mạ đã chuẩn bị sẵn những tay nải áo quần để ngày mai đi chung chuyến xe vô Đà Nẵng với nhà Bác Nghĩa, chị Lan ơi!
- Ba mình cắm trại từ hôm qua rồi…
Mạ Lan ôn tồn nói:
- Ngày mai hai bà với bầy con 9, 10 đứa dắt díu nhau đi, cầy ơn trên phò hộ..tai qua nạn khỏi..
Xe cộ từ những nẻo đường trong thành phố và các vùng phụ cận đổ xe về ngã cầu Trường Tiền, cầu Mới để đi vô Đà Nẵng. Có tin vĩ tuyến 17 sẽ vươn dài tới ngang Đèo Hải Vân
Đoàn người di tản, bộ hành có, xe cộ có nuối đuôi nhau ngoằn ngoèo dài ngun ngút không thấy đầu đuôi…
Tới đèo Phú Gia bên kia nã pháo ầm ầm..Lưu thông tắc nghẽn, xe đang chạy có lúc thắng không kịp húc đuôi nhau lật xe. Người chết vì đạn pháo, người chết từ xe lật. Tiếng khóc la thảm thiết. Xác chết được mọi người giúp tay kéo ra đặt ngay ngắn bên vê đường la liệt như sắp cá. Lan nhăm mắt cầu nguyện. Mạ Lan cầm lòng không đậu khóc to lên:
- Con ơi! Cháu ơi!
Xe lên tới đỉnh Đèo Hải Vân thì đã nửa khuya. Sương xuống lạnh ướt cả bờ vai. Lần đầu tiến Lan thấm thía nỗi buồn đơn lạnh cưa anh chiến sĩ xa nhà trong một bài ca mà Lan đã từng nghe..
Cả nhà xuống xe nghỉ ngơi. Lan xếp hàng chờ nhận những chén cơm chan canh su nóng hổi, mùi tiêu thơm ngào ngạt, bốc hôi nghi ngút làm ấm bàn tay Lan, thật là đậm đà tình quân dân. Mấy đứa nhỏ ăn hau háu.
Bên cạnh cái lô cốt mấy anh lính lui cui nấu hết nồi nầy đến nồi khác để tiếp tế thức ăn cho dân chạy loạn. Nhìn họ Lan nghĩ đến Sấm lòng buồn xa vắng.
Vào tới Đà Nẵng, gia đình Bác Nghĩa về Thanh Bình. Nhà Lan vòng qua Sơn Trà.
Ở nhà chú Thảo hai tuần. Mạ và Lan ngày đêm mong ngóng tin Ba, tin Sấm. Qua ngày thứ 15 anh Quốc con chú Thảo theo tàu Hải Quân vê được tới nhà. Tóc tai, mặt mũi dài ngoằn.
Qua hôm sau mạ và Lan lội bộ về Đà Nẵng, đến bến Bạch Đằng tìm tung tích của Ba. Từng chiếc tàu H.Q chở cả rừng người áo trận đưa binh chủng từ Huế vào, lần lượt cập bến. Lan đứng ngoài hàng rào lưới thép mắc cá theo dõi từng bóng người mong tìm ra Ba và Sấm. Bác Nghĩa trai chờ đợi gần cả ngày chẵng nhận ra ai. Lan thò tay vô lỗ mắc cá ngoắc đại một người mặc quân phục rằn ri và la to:
- Anh ơi! Cho hỏi nhờ Anh ơi! Làm ơn giúp giùm.
Người lính đi sát lại hàng rào. Lan run run hỏi:
- Đơn vị của Sấm.... Giọng anh lùng bùng miền Bắc:
- Chịu thôi cô ơi! Tôi thuộc tiểu đoàn nhảy dù chả có biết ai bên Thủy quân lục chiến. Hai thằng bạn đời tôi chết trong giờ phút cuối của trận chiến ở góc một ngôi trường tiểu học Quảng Vinh làng phố lại mà xác cũng lấp vội vì đơn vị phải rút quân gấp gáp…
Lan nghe mà nghẹn ngào..một anh khác nhào tới nói giọng Nam:
- Về thôi cưng ơi! Nước mất nhà tan rồi!
Trời chiều ngã bóng. Hai mẹ con thầt thễu quay về tình cờ gặp Hồng, em Sấm & Sương chị con dì. Lan mừng rỡ hỏi thăm tin tức gia đình Hồng.
- Chẳng có tin tức chi hết chị ơi! Mạ em khóc cả ngày.
Rồi Hồng giới thiệu với Sương; Lan là bạn gái của Sấm. Sương thân mật nắm tay Lan và ngõ ý kêu gia đình Lan chuyển về Thanh Bình ở với nhà Bác Nghĩa:
- Khuya nay nhà Sương đi Sàigòn để nhà dì Nghĩa ở lại một mình la cảnh la người dì lo lắm.
Trở về Sơn Trà Lan để ý láng giềng chú Thảo lai chuẩn bị di tản. Mọi người cuống cuồng hơn khi bên địch pháo liên tục về phiá biển Tiên Sa. Mạ ra đường tìm xe lam đưa cả nhà về lại Thanh Bình. Vợ chồng chú Thảo la làng. Mạ vừa nói vừa khóc. Chú thím thông cảm.
- Tôi nóng ruột theo Ba mấy cháu rồi còn mấy không nữa. Răng không thấy không mô vê đât hết?
Mấy mạ con lục đục lên xe. Qua cầu Đa lá 1 đoạn tới gần bãi đất trống mênh mông có nắng cháy có thật nhiều dân chạy loạn tạm cư ở đó. Họ dựng lều sống tạm bợ dưới cái nắng tháng Ba mà nóng ngơ người. Phiá bên kia cách lề đường vài chục mét có chiếc phi cơ hạ cánh. Tất cả xe cộ đang chây trên đường đều phải dừng lại. Quân cảnh đi lại hai bên đường. Bác tài xuống xe chạt tới chạy lui nghe ngóng tin tức rồi Bác lên tiếng:
- Nghe nói Tướng Toàn đang trấn an dân chạy loạn. Phát cho họ ít chục ngàn ông ơi! Bác Tài Khôi hài nói.
Về tới Đà Nẵng mới thấy cảnh hỗn loạn. Kẻ lợi dụng đi hôi của đập phá thành phố lung tung. Người thất trận từ đâu kéo về. Từng đoàn quân áo quần nhếch nhác mặt mũi bơ phờ họ đi thành từng nhóm có người bất mãn kêu la khủng khiếp. Một nhóm chừng 5,7 người bất ngờ nắm tay nhau đi vòng quanh rồi dõng dạc hô to 1 điều chi đo, xe cộ qúa ồn ào Lan không nghe rõ chỉ biết 1 điều làm Lan xúc động mạnh khi nghe một tiếng nổ lớn. Tất cả thân xác họ ngã ngục. Dân chúng chạy tán loạn. Bác tài hú hồn rú ga xe chây nhanh rồi thả mạ con Lan dọc đường dù chưa đến Thanh Bình.
Nhà dì Hồng ở sát biển. Đêm nằm nghe sóng vỗ mà Lan buồn khôn nguôi khi hớ tới lời anh lính dù “nước mất nhà tan rồi”.. có lẽ vậy!
Cả nhà khật khờ chỉ có lũ trẻ cười đùa vô tư. Qua 26.3 Huế thật sự bơ ngơ. Lan hoàn toàn thất vọng..Sấm, Ba, Bác Nghĩa…
Mạ ngày đêm khấn nguyện. Lần luờt Đà Nẵng Sài Gòn mất. Lan nghe mà bàng hoàng. Sáng thức dậy ra chợ Lan thấy mấy thầy chùa ngồi trên xe cầm cờ MTGiải Phóng reo hò mà Lan bỡ ngỡ. Bác Nghĩa cũng từ chợ về bực dọc nói:
- Thiên hạ thiệt tình. Mới bữa trước, bữa sau mà trở mặt như trở bàn tay. Thấy họ nắm tay bà cổ, sờ vai mấy cha bộ đội mà tui ngứa máu sần sật..
Hàng xóm tụ năm, tụ ba bàn tán xôn xao. Một bác trai đã có tuổi xoa tay nói trống rỗng:
- Hết rồi giấc mộng xe hơi, nhà lầu..
Bác Nghĩa ghé tai mạ nói nhỏ:
- Ông giá ăn nói vô duyên. Biết bao người bô mạng chưa có tin tức, ở đó mà xe hơi, nhà lầu…
Mạ Lan kéo tay Bác đi về, thì thầm:
- Kệ chị ơi! Thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ là rứa đó!
Hai bà bàn bạc về lại Huế.
Thành phố hoạng lạnh tiêu điều. Về tới nhà, xóm giềng vắng vẻ. Có nhà vẫn chưa về. Có lẽ đi thẳng vô Sài Gòn. Nhà cửa bị bọn hôi của phá tan hoanh.
Mạ ra chợ gặp bạn hàng nghe dì sổ nói chồng dì đang học tập ngoài Hòa Mỹ chắc ít ngày nữa sẽ về. Có người mới về hôm tê. Mạ tìm tới nhà hỏi tin Ba. Mạ hớn hở quay về nhà thông báo cho Bác Nghĩa, mừng qúa mạ mua thức ăn quên trước quên sau. Mà chừ thì phải tiết kiệm lại. Xã hội đảo lộn cả rồi. Mới có hơn một tháng làng xóm thay đổi hẳn. Mọi người nhìn nhau e dè. Guồng máy chính quyền lạ hoắc, có những người từ trên rừng về, ngoài Bắc bô vô, khác hẳn dân miền Nam từ lời ăn tiếng nói, đi đứng, ăn mặc. Mạ than phiền:
- Thấy mà ngứa mắt! Hết rồi con ơi! Nhiều nhà bỗng dưng bị tịch thu. Gia đình chạy loạn về thì bơ vơ không nơi nương tựa nòi chi tới công ăn việc làm..Con cái thật sự đi vào một “khúc rẽ cuộc đời”.
Ở Huế đội ba ngày Lan sửa soạn ra trường cũ trình diện. Lan ghé nhà chị Hằng thăm trước. Đa số dạn địa phương không di tản. Chị Hằng cho Lan biết Thầy Hiệu trưởng mất chức rồi. Vô trường Lan sẽ biết.
Lan ngỡ ngàng khi gặp ông Hiệu trưởng mới từ Nghệ An vào. Lan chưng hửng cứ nghĩ rằng đó là Giáo chức, mấy “nàng” ở ngoài vô chiếm hết hai phần gọi là Giáo viên chi viên. Giáo viên địa phương phần lớn “mất dạy” họ xí phần cho người miền Bắc vào. Du bất mãn đã nhen nhúm ở người dàn địa phương…
Giáo chức tập trung vào ở tập thể theo chính sách chia để trị. Hai giác chức cồng với một giáo viên chi viện ở, chung một phòng đẻ dễ bề theo dõi trường có 5 giáo chức từ Huế ra bị chia ra 5 thôn. Thuận xui xẻo bị đưa ra tận Triệu Ái gần phi trường Ái tử..
Cuộc sống xuếng dốc. Ăn uống thiếu thốn. Tinh thần bị bừng bít. Cả tuần chỉ trông tối ngày thứ 5 họp Hội đồng để gặp nhạu e dè tâm sự: Mỹ Trang kể lể.
- Tau nhớ gia đình ra đúng cạnh bụi tre khóc mà tụi hắn cũng lên tiếng phê bình.
Bữa khác nghe ngọc Hòa nhỏ to:
- Ê! Con Thuận bị đảy về Triệu Độ. Cái xà nổi tiếng đầy du kích trước 1975 ở cái làng gia Độ.. Tau gặp anh bắn kể. Hắn liều mạng giấu 2 bánh đường đen ở bụi cây gần trường giúp cho mấy ông cải tạo ở Aí tử. Không ngờ có người thấy…
Nhà Thuận có xe đò chạy tuyến đường Huế. Đôn Hà Thuận dạy trường chính ngay quốc lộ, chiều thứ bảy theo xe nhà vô Huế. Sáng thứ hai lộn ra xe dừng ngang cổng trường. Cung cách đó làm tụi giáo viên chi viện gọi là “Tiểu tư sản”. Được dịp tụi hắn chơi Thuận tới bến luôn. Không bao lâu sau Thuận nghỉ việc!
Lần lượt mấy đứa ban Lan hoặc theo gia đình vê Long Khánh hoạc có tiền chạy hộ khẩu vộ thành phố “mất dạy” luôn. Lan còn bầy em nhỏ phải gánh vác. Đôi ba tháng về nhà thấy mọi người quanh xóm ai cũng tiều tụi. Ba và Bác Nghĩa chay xe ôm phụ gia đình. Mây đứa thanh niên trong xóm đang học hành ở lứa tưổi dậy thì, tuổi xuân phơi phới khi không cuộc sống bị chựng lại thiếu ăn thiếu mặc có đứa đi vùng kinh tế mới, có đứa gia nhập “Đảng Phục Quốc bị gài độ” chạy tan tác…
Hồng em Sấm nghỉ học vừa đan lát vừa phụ giúp việc nhà. Bác Nghĩa gái xoay nghề qua bán áo quần cữ ra tận Hải Lăng, Quảng Tri, Đông Hà lan lóc tới các thôn xã xa đẻ tìm tung tích của Sấm. Tình mẹ thương con vô bờ bến, trên chuyến xe đò ra vô Huế, thấy tình cảnh mấy cô giáo có chồng cải tạo xa phải đùm đế con nhỏ ra trường theo mẹ. Bác chạnh lòng trong giỏ của Bác có bất cứ thức ăn gì Bác chia hết cho mấy đứa nhỏ…
Ngày đêm Bác nóng ruột sôi gan theo Sám. Bạn bè cùng tran lứa của Sấm nếu ở trai cải tạo đều có thư báo về nhà còn Sấm biệt âm vô tín..
Mạ an ủi Lan:
- Gái thời loạn, Gái thời bình..Không còn bỏ việc vể đan lát, thêu thùa..nghiệt nỗi chính sàch hộ khẩu cũng khó tính…
Bàn khoăn, nghĩ ngợi rồi lại xách gói ra trường..nhớ tới tụi giáo viên chi viện mà ngán ngẩm..
Xe đi qua An Lỗ, Phong Sơn, Phong Mỹ…Lan nhớ Sấm tha thiết.
Ngày đêm Bác nóng ruột sôi gan theo Sám. Bạn bè cùng tran lứa của Sấm nếu ở trai cải tạo đều có thư báo về nhà còn Sấm biệt âm vô tín..
Mạ an ủi Lan:
- Gái thời loạn, Gái thời bình..Không còn bỏ việc vể đan lát, thêu thùa..nghiệt nỗi chính sàch hộ khẩu cũng khó tính…
Bàn khoăn, nghĩ ngợi rồi lại xách gói ra trường..nhớ tới tụi giáo viên chi viện mà ngán ngẩm..
Xe đi qua An Lỗ, Phong Sơn, Phong Mỹ…Lan nhớ Sấm tha thiết.
Đầu niện học 1977, Lan có “Quyết định” chuyển về dạy ở Phong Hải, bên kia bở phá Tam Giang.
Thủy được nhích vô Phong Hiền, cũng mừng cho hắn. Thủy là chưa mơ mộng đén lúc sống chung với quy đỏ hắn thở dài thườn thượt, đem ngủ nghiến răng ken két Há bỏ việc ngay từ đây. Lanh tay theo mẹ buôn bán cửa hàng. Hà đủ có thư Tiến từ trại Bình Điền.
Thủy và Lan đạp xe vòng vòng thành phố nhìn thế sự đổi thay. Ghé trến Đông Ba coi trước tuyến đường đi Phong Hải.
Chuyến đò sớm đưa Lan về ngũ Điền từ bến đò đi ra xã nửa tiếng đường đất cát. Nắng và nóng làm Lan mệt đừ người. Cũng may Lan rất vui mừng khi trình diện trường mới. Hiệu trưởng lại là Qui bạn cũ khóa sư phạm. Qui người địa phương, con liệt sĩ. Học ở Huế từ nhở nên tư tưởng phòng khoáng. Qui xoa tay nói vói Lan:
- Tưởng ai, tè ra là Lan. Qủa đất tròn bạn hí!
Đa số ở trường là giáo viên Huế về còn lại là địa phương nên không khí dễ thở. Giáo viên địa phương cũng ba đời ăn cơm “Mỹ Ngụy”. Lan cảm thấy haì lòng dù có xa nhà, đường đi đó giang cách trở…
Qui nói tiếp:
- Trường chỉ thiếu giáo viên ở cơ sở phu. Cô Lan chịu khó thời gian ra dạy ngoài H. Nhuận xa đầy 20 phút đường bộ rồi có điều kiện hoán chuyển qua lại. Đêm nay ở cơ sở chính. Ngày mai tụi mình ra H. Nhuân, có Hạnh và Lôc cùng sư phạm Huế dạy 2 thôn gần đó…
Lan phụ trách lớp 4 ở trọ nhà phụ huynh.
Đêm đàu tiên ở vùng biển, Lan ngủ ngon nhờ gió biển về khuya thật dễ chịu. Nhà của chị Oanh tuy trống hoác, nhưng bình yên. Người dân ở đây xởi lởi. Qúy thầy cô giáo, trên Huế về. Chị oanh mẹ góa con côi, buôn bán mắm ruốc ngoài chợ Quận, sáng đi chiều về. Thằng Danh học trò Lan con một của chị, nghe chị tâm sự giọng nằng nặng địa phương.
- Ba thắng Danh trước đây là lính rằn ri ngoài Quân en ở mô trong nam ra lận. Lính xa nhà cô cũng biết rồi.. Bầy tui thì ở cảnh trai thiếu gái thừa nên rồi ráp vô. Nhờ vây chừ tui mới có thằng Danh. Chó khôn “đóc tróc” một mình cũng buồn lắm cô ơi! Con Thạnh, con Nữ ở quanh thôn ni con mô cũng có con mà không chồng như tui hết. Sau 75 thì mấy “en” mỗi người mỗi ngã khôn biết sống chết nơi mô nữa…
Lan chạnh nghĩ tới thế hệ của bọn Lan tương lai không biết sẽ về đâu…cuộc sống thụt lui. Không sách báo, không Tivi, chỉ có cái loa treo tuốt trên ngọn cây dương đầu thôn suốt ngày rang rảng điệp khúc “tiến nhanh tiến mạnh…thi đua sản xuất…” nghe điên cả cái đầu…
Ngày vui với lũ trẻ khét nắng mùi biển mặn. Tối về căng mắt soạn bài. Lúc rãnh rỗi nghe chị Oanh kể chuyện mấy ông rằn ri ngoài chợ Quận với giọng đầy tiếc nuối. Ai bảo gái quê không đa tình?
Thủy được nhích vô Phong Hiền, cũng mừng cho hắn. Thủy là chưa mơ mộng đén lúc sống chung với quy đỏ hắn thở dài thườn thượt, đem ngủ nghiến răng ken két Há bỏ việc ngay từ đây. Lanh tay theo mẹ buôn bán cửa hàng. Hà đủ có thư Tiến từ trại Bình Điền.
Thủy và Lan đạp xe vòng vòng thành phố nhìn thế sự đổi thay. Ghé trến Đông Ba coi trước tuyến đường đi Phong Hải.
Chuyến đò sớm đưa Lan về ngũ Điền từ bến đò đi ra xã nửa tiếng đường đất cát. Nắng và nóng làm Lan mệt đừ người. Cũng may Lan rất vui mừng khi trình diện trường mới. Hiệu trưởng lại là Qui bạn cũ khóa sư phạm. Qui người địa phương, con liệt sĩ. Học ở Huế từ nhở nên tư tưởng phòng khoáng. Qui xoa tay nói vói Lan:
- Tưởng ai, tè ra là Lan. Qủa đất tròn bạn hí!
Đa số ở trường là giáo viên Huế về còn lại là địa phương nên không khí dễ thở. Giáo viên địa phương cũng ba đời ăn cơm “Mỹ Ngụy”. Lan cảm thấy haì lòng dù có xa nhà, đường đi đó giang cách trở…
Qui nói tiếp:
- Trường chỉ thiếu giáo viên ở cơ sở phu. Cô Lan chịu khó thời gian ra dạy ngoài H. Nhuận xa đầy 20 phút đường bộ rồi có điều kiện hoán chuyển qua lại. Đêm nay ở cơ sở chính. Ngày mai tụi mình ra H. Nhuân, có Hạnh và Lôc cùng sư phạm Huế dạy 2 thôn gần đó…
Lan phụ trách lớp 4 ở trọ nhà phụ huynh.
Đêm đàu tiên ở vùng biển, Lan ngủ ngon nhờ gió biển về khuya thật dễ chịu. Nhà của chị Oanh tuy trống hoác, nhưng bình yên. Người dân ở đây xởi lởi. Qúy thầy cô giáo, trên Huế về. Chị oanh mẹ góa con côi, buôn bán mắm ruốc ngoài chợ Quận, sáng đi chiều về. Thằng Danh học trò Lan con một của chị, nghe chị tâm sự giọng nằng nặng địa phương.
- Ba thắng Danh trước đây là lính rằn ri ngoài Quân en ở mô trong nam ra lận. Lính xa nhà cô cũng biết rồi.. Bầy tui thì ở cảnh trai thiếu gái thừa nên rồi ráp vô. Nhờ vây chừ tui mới có thằng Danh. Chó khôn “đóc tróc” một mình cũng buồn lắm cô ơi! Con Thạnh, con Nữ ở quanh thôn ni con mô cũng có con mà không chồng như tui hết. Sau 75 thì mấy “en” mỗi người mỗi ngã khôn biết sống chết nơi mô nữa…
Lan chạnh nghĩ tới thế hệ của bọn Lan tương lai không biết sẽ về đâu…cuộc sống thụt lui. Không sách báo, không Tivi, chỉ có cái loa treo tuốt trên ngọn cây dương đầu thôn suốt ngày rang rảng điệp khúc “tiến nhanh tiến mạnh…thi đua sản xuất…” nghe điên cả cái đầu…
Ngày vui với lũ trẻ khét nắng mùi biển mặn. Tối về căng mắt soạn bài. Lúc rãnh rỗi nghe chị Oanh kể chuyện mấy ông rằn ri ngoài chợ Quận với giọng đầy tiếc nuối. Ai bảo gái quê không đa tình?
Thỉnh thoảng Hạnh từ trên về ở lại với Lan. Biển vắng không một bóng người, hai đứa ngồi trren bờ nhìn mặt nước lung linh ánh trăng như dát vàng. Qúa đỗi quạnh hui. Hai đứa cùng môt suy nghĩ: "Tui mình mang thân phận nhược tiểu..Bất giác cả hai cùng bật khóc thành tiếng".
Phố phường xa dần. Ba mạ em út mấy tháng trời không gặp. Đời sống bị bùng bít..một mình đi từ thôn vô cơ sở chính hội họp. Trước mắt những độn cát mênh mông trải dai. Bơ vơ giữa trời đất Lan nghe lòng khắc khoải. Lan gọi thầm tên Sấm và khấn nguyện:
- Sấm ơi! Nếu anh còn sống xin đưa tin về cho gia đình. Nếu không may Anh đã ra đi thì hồn anh linh thiêng báo mộng cho gia đình biết. Cuộc chiến đã tàn sao quê hương mình không như điều mơ ước mà chỉ toàn là đau đớn với biệt ly…
Hanh ngồi ở văn phòng nóng lòng chờ Lan. Vừa thấy bóng Lan đến Hạnh vội vã kéo tay Lan đến ngồi bên cửa sổ kê chuyện nhà chị Hài:
- Hôm qua con Sứu đị vô độn kiếm củi. Nó kiếm không ra củi mà lai xách về một sọ người gói trong bao cát lên chàn bếp rồi ngẽ chờ chị mách với chị:
- Mạ ơ! Ngày ni tui không có củi mà tui được cái con chi không biết, tui để trên chàn mạ ra mà coi.
Chị Hái nghe con nói lấy làm lạ, chưa kịp cất gióng gánh chị tò mò xuống bếp lấy bao cát mở miệng xem. Chị Hái thét lên một tiếng thất thanh rồi ngã vât xuống nền nhà. Hàng xớm chạy lại mốt hay sự việc. Tin tức đưa tới tai ông trưởng thôn. Bác Tô người lớn tuổi nhất trong thôn tụ tập thanh niên lại bàn bạc rồi dùng rạp cạnh nha chị Hái để tẩm liêm cho người xấu số. Cả Ông và chị Hải ngờ rằng:
- Đây có lẽ là hồn Ba con Sửu hiện về xụi khiến cho cha con gặp nhau. Ba con Sửu cung là lính chết trân ngoài Quảng Trị không tìm ra xác năm 1972. Cũng bởi tin vậy nên trưa ngày hôm đó chị Hái và hai người em trai tức tốc theo con Sửu vô chỗ cũ để tìm thêm dấu vết tung tích. Họ chỉ kiếm thêm được vài cái vương lóng tay, lòng chân. Đặc biệt Lan ơi! Có cái thẻ bài mang tên Trần Hùng Hâu Số quân….Lan chọt rùng mình. Một luồng khí lạnh chạy khắp người Lan. Tay chân bủn rủn Lan nắm vật xuống mặt bàn, người xanh lét…
Nghe tiếng kêu cứu. Hết thày giáo viên chạy lại xức dầu, cao gió cho Lan, rồi họ đưa Lan về phòng Sa nghỉ ngơi…
Khi Lan tỉnh dây thì thấy bạn bè ngồi quanh Lan từ lúc nào. Mọi người điều biết chuyện lòng của Lan. Họ vỗ về, an ủi Lan. Chị Vinh lên tiếng:
- Lan khỏe rồi. Nhớ đi ra bưu điện xã nhắn tin gấp cho gia đình Sấm biết đặng ngày mai họ ra kịp chuyến đò mà về đây…
Đò chiều cập bến, Bác Nghĩa gái vừa bước chân ra khỏi mạn là ôm chầm Lan khóc tức tưới:
- Con ơi! Hâu ơi!...
Tiến Bác nấc nghen kể lể từng bời. Dưới rảng chiều đỏ rực bóng hai người đàn bà cầm lấy tay nhau khóc nức nở. Khách đi đò bươc lại nghe chuyện ai cũng tạc lưỡi xót xa khong tin điều đó là sự thực.
Một chị lớn tuổi an ủi Bác Nghỉa rồi bảo Lan nên đưa Bác ra thôn ngay kẻo đường đi còn xa.
Sau buổi cơm chiều trong thôn từ trẻ tới già mọi người kéo nhau lại rạp đám để thăm viếng. Tình câm người dân quê ở đây thật mặn mà dù cuộc đổi đời đã xoay chuyển…Bác Tô ôn tồn nói với ông bà Nghĩa:
- En chị chớ buồn. Trời đã an bài số phận cậu đây là như rứa. Cậu linh thiêng lắm mới dun dủi cho cô Lan gặp lại thiệt là cái phước lớn….Bầy tui năm ni đã 75 tuổi đời. Qua mấy cuộc chiến tranh đây là lần đầu tiên tui gặp cái cảnh như ri. Chiến tranh nghiệt ngũ lắm. Mà thôi! Rứa là hồn cậu cũng được siêu thoát rồi.
Bác chỉ bầy trẻ đang nô đùa trước sân rồi nói tiếp:
- Sấp nhỏ đó đa số là con em mấy en ngoài Quận hết. Cũng nhờ mấy en gìn giữ Quận bầy tui mới sống sót tới ngày hôm ni…Tội nghiệp. Sau ngày 75 thì tan hàng, lúu lạc mô hết.
Bác trai Nghĩa khụy gấp người bên chiếc hòm nhỏ tay Bác cào cấu vô mặt hòm chắc Bác đau xót lắm. Lan va Thạnh em trai Lan lúi cúi thay hương đèn hoa quả. Bác gái tiếp tục khóc lóc não nề:
- Con ơi! Mạ đêm mong, ngày ngóng chờ con về. Con đi mấy năm trời biền biệt. Chừ thì mạ đã gặp con mà con ra thân thế như ri…
Mọi người đứng bên ngòai thút thít khóc theo. Chị Oanh tất tả từ dưới thôn lên đặt hương hoa khấn vái cho Sấm.
Ông Bà Nghĩa hết sức cảm động bởi tấm thịnh tình của người dân ở đây. Bác gái nói lời cảm ơn. Bác nói nhỏ với Bác Tô gia đình xin gởi một số tiền để nhờ Bác trang trải chi phí trong hai ngày vừa qua và cũng là để mời các bà con ở treng thộn một bữa…
Giọng Bác Tô chậm rãi:
- Ơn nghĩa chi en chị ơi! Nghĩa tử là nghĩa tận cậu đây như con cháu trong thôn. Hễ mà chết dọc đường thì tục lệ của làng là dựng rạp để ngoài xóm 3 ngày để làm đám cùng kiến rồi chôn cắt. Thời buổi loạn ly khó nói lắm. Không biết là ai nhưng mà đã mất rồi thì..Huống hồ chi mấy en ngoài Quận quen thuộc với bầy tui ra vô mãi..dân ở đây họ cũng nhớ điều đó mà..
Nòi rồi Bác đi lại thắp thêm nhang cho Sấm. Lan ngậm ngùi hìn chiếc hòm nhỏ đựng thân xác không toàn vẹn của Sấm. Lan nấc lên não nuột, mắt náng nhòa lệ. Lan chợt nhớ hai câu thơ ngày trước:
Những người muôn năm cũ.
Hồn ở đâu bày giờ?
M.TH
Phố phường xa dần. Ba mạ em út mấy tháng trời không gặp. Đời sống bị bùng bít..một mình đi từ thôn vô cơ sở chính hội họp. Trước mắt những độn cát mênh mông trải dai. Bơ vơ giữa trời đất Lan nghe lòng khắc khoải. Lan gọi thầm tên Sấm và khấn nguyện:
- Sấm ơi! Nếu anh còn sống xin đưa tin về cho gia đình. Nếu không may Anh đã ra đi thì hồn anh linh thiêng báo mộng cho gia đình biết. Cuộc chiến đã tàn sao quê hương mình không như điều mơ ước mà chỉ toàn là đau đớn với biệt ly…
Hanh ngồi ở văn phòng nóng lòng chờ Lan. Vừa thấy bóng Lan đến Hạnh vội vã kéo tay Lan đến ngồi bên cửa sổ kê chuyện nhà chị Hài:
- Hôm qua con Sứu đị vô độn kiếm củi. Nó kiếm không ra củi mà lai xách về một sọ người gói trong bao cát lên chàn bếp rồi ngẽ chờ chị mách với chị:
- Mạ ơ! Ngày ni tui không có củi mà tui được cái con chi không biết, tui để trên chàn mạ ra mà coi.
Chị Hái nghe con nói lấy làm lạ, chưa kịp cất gióng gánh chị tò mò xuống bếp lấy bao cát mở miệng xem. Chị Hái thét lên một tiếng thất thanh rồi ngã vât xuống nền nhà. Hàng xớm chạy lại mốt hay sự việc. Tin tức đưa tới tai ông trưởng thôn. Bác Tô người lớn tuổi nhất trong thôn tụ tập thanh niên lại bàn bạc rồi dùng rạp cạnh nha chị Hái để tẩm liêm cho người xấu số. Cả Ông và chị Hải ngờ rằng:
- Đây có lẽ là hồn Ba con Sửu hiện về xụi khiến cho cha con gặp nhau. Ba con Sửu cung là lính chết trân ngoài Quảng Trị không tìm ra xác năm 1972. Cũng bởi tin vậy nên trưa ngày hôm đó chị Hái và hai người em trai tức tốc theo con Sửu vô chỗ cũ để tìm thêm dấu vết tung tích. Họ chỉ kiếm thêm được vài cái vương lóng tay, lòng chân. Đặc biệt Lan ơi! Có cái thẻ bài mang tên Trần Hùng Hâu Số quân….Lan chọt rùng mình. Một luồng khí lạnh chạy khắp người Lan. Tay chân bủn rủn Lan nắm vật xuống mặt bàn, người xanh lét…
Nghe tiếng kêu cứu. Hết thày giáo viên chạy lại xức dầu, cao gió cho Lan, rồi họ đưa Lan về phòng Sa nghỉ ngơi…
Khi Lan tỉnh dây thì thấy bạn bè ngồi quanh Lan từ lúc nào. Mọi người điều biết chuyện lòng của Lan. Họ vỗ về, an ủi Lan. Chị Vinh lên tiếng:
- Lan khỏe rồi. Nhớ đi ra bưu điện xã nhắn tin gấp cho gia đình Sấm biết đặng ngày mai họ ra kịp chuyến đò mà về đây…
Đò chiều cập bến, Bác Nghĩa gái vừa bước chân ra khỏi mạn là ôm chầm Lan khóc tức tưới:
- Con ơi! Hâu ơi!...
Tiến Bác nấc nghen kể lể từng bời. Dưới rảng chiều đỏ rực bóng hai người đàn bà cầm lấy tay nhau khóc nức nở. Khách đi đò bươc lại nghe chuyện ai cũng tạc lưỡi xót xa khong tin điều đó là sự thực.
Một chị lớn tuổi an ủi Bác Nghỉa rồi bảo Lan nên đưa Bác ra thôn ngay kẻo đường đi còn xa.
Sau buổi cơm chiều trong thôn từ trẻ tới già mọi người kéo nhau lại rạp đám để thăm viếng. Tình câm người dân quê ở đây thật mặn mà dù cuộc đổi đời đã xoay chuyển…Bác Tô ôn tồn nói với ông bà Nghĩa:
- En chị chớ buồn. Trời đã an bài số phận cậu đây là như rứa. Cậu linh thiêng lắm mới dun dủi cho cô Lan gặp lại thiệt là cái phước lớn….Bầy tui năm ni đã 75 tuổi đời. Qua mấy cuộc chiến tranh đây là lần đầu tiên tui gặp cái cảnh như ri. Chiến tranh nghiệt ngũ lắm. Mà thôi! Rứa là hồn cậu cũng được siêu thoát rồi.
Bác chỉ bầy trẻ đang nô đùa trước sân rồi nói tiếp:
- Sấp nhỏ đó đa số là con em mấy en ngoài Quận hết. Cũng nhờ mấy en gìn giữ Quận bầy tui mới sống sót tới ngày hôm ni…Tội nghiệp. Sau ngày 75 thì tan hàng, lúu lạc mô hết.
Bác trai Nghĩa khụy gấp người bên chiếc hòm nhỏ tay Bác cào cấu vô mặt hòm chắc Bác đau xót lắm. Lan va Thạnh em trai Lan lúi cúi thay hương đèn hoa quả. Bác gái tiếp tục khóc lóc não nề:
- Con ơi! Mạ đêm mong, ngày ngóng chờ con về. Con đi mấy năm trời biền biệt. Chừ thì mạ đã gặp con mà con ra thân thế như ri…
Mọi người đứng bên ngòai thút thít khóc theo. Chị Oanh tất tả từ dưới thôn lên đặt hương hoa khấn vái cho Sấm.
Ông Bà Nghĩa hết sức cảm động bởi tấm thịnh tình của người dân ở đây. Bác gái nói lời cảm ơn. Bác nói nhỏ với Bác Tô gia đình xin gởi một số tiền để nhờ Bác trang trải chi phí trong hai ngày vừa qua và cũng là để mời các bà con ở treng thộn một bữa…
Giọng Bác Tô chậm rãi:
- Ơn nghĩa chi en chị ơi! Nghĩa tử là nghĩa tận cậu đây như con cháu trong thôn. Hễ mà chết dọc đường thì tục lệ của làng là dựng rạp để ngoài xóm 3 ngày để làm đám cùng kiến rồi chôn cắt. Thời buổi loạn ly khó nói lắm. Không biết là ai nhưng mà đã mất rồi thì..Huống hồ chi mấy en ngoài Quận quen thuộc với bầy tui ra vô mãi..dân ở đây họ cũng nhớ điều đó mà..
Nòi rồi Bác đi lại thắp thêm nhang cho Sấm. Lan ngậm ngùi hìn chiếc hòm nhỏ đựng thân xác không toàn vẹn của Sấm. Lan nấc lên não nuột, mắt náng nhòa lệ. Lan chợt nhớ hai câu thơ ngày trước:
Những người muôn năm cũ.
Hồn ở đâu bày giờ?
M.TH
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen